LTS: Các đề tài về Ca-tô Rô-ma giáo không hề cạn bởi vì "công ty sản xuất niềm tin" này vẫn còn hoạt động, và hoạt động đều đặn với hết 100% công suất. Chẳng trách GS Trần Chung Ngọc vẫn còn tìm thấy cảm hứng trong các chủ đề quanh những hoạt động của các tín hữu. Vì thế, chúng tôi tin rằng bạn đọc cũng sẽ thích thú trong mỗi bài viết của ông: từ những chi tiết bắt đầu với sự biến hóa từ lời tiên tri Isaiah đến Matthew; đến những lời phân tích hay bình phẩm của các danh nhân, trí thức ngay trong Giáo Hội về những trò mê hoặc trẻ con của Giáo Hội, đối chiếu trước ánh sáng khoa học ngày nay về giới tính của đứa bé Giêsu nếu Maria chưa giao hợp với đàn ông, về chuyện ngôi sao dẫn đường 3 vua,v.v... sẽ đem lại cho bạn đọc những điều lý thú. Tòa soạn kính mời (SH)
Gồm các mục:
Thỉnh thoảng chúng ta lại được nghe tin Đức Mẹ của người Ca-tô Rô-ma giáo (thường thậm xưng là Công Giáo) khóc nơi này hoặc nơi kia (xem danh sách http://miracles.mcn.org/weeparchive.htm) Đức Mẹ của họ đã khóc ở khắp nơi trên thế giới, khi thì khóc ra máu, khi thì khóc ra dầu v…v… Nhưng tại sao Đức Mẹ khóc? Bài viết này dựa trên tình cảm thông thường của một người bình thường như mọi người, những tình cảm như thương cảm, ái ngại, buồn khổ, muốn làm lành, tránh ác v…v…, và với một chút ít hiểu biết về khoa học, để tìm hiểu vấn đề “Tại sao Đức Mẹ khóc ?”
Đã có nhiều câu trả lời. Đối với giáo dân Ca-tô thì câu trả lời thường là Mẹ khóc vì thế gian tội lỗi, hoặc vì ngày tận thế sắp tới mà Mẹ không muốn nhân loại chìm trong máu lửa trong trận chiến cuối cùng giữa con của mẹ, Dê-su , và Satan, dù tất nhiên là con Mẹ sẽ thắng … Các tín đồ đều tin như vậy, và càng sùng bái thêm lòng thương yêu bao la của Đức Mẹ, cho nên thấy Mẹ khóc ở đâu, bất kể là Mẹ khóc thật hay người ta ép Mẹ phải khóc, là kéo nhau đến bái lậy, khấn khứa, cầu kinh v…v…, không bao giờ thắc mắc là: “Tại sao Mẹ khóc và khóc để làm gì, bao nhiêu cái khóc đó đã giúp cho nhân loại những gì v…v…?” Ca-tô Rô-ma Giáo nổi tiếng là một tôn giáo do chính Chúa Dê-su thiết lập, nên đương nhiên là văn minh, tiến bộ nhất thế giới, chỉ có “đức tin”, và “đức tin” không phải là mê tín, giáo hội dạy vậy.
Đối với người ngoài đạo hiểu biết thì Đức Mẹ khóc vì giáo hội, hoặc các linh mục nhiều mánh mưu ở các địa phương bày trò để khai thác lòng mê tín của giáo dân và để hốt bạc v…v…, cũng như là giáo hội đã từng bày ra các vụ Đức Mẹ hiện ra ở khắp nơi, thí dụ như ở Lourdes hay Fatima, để nuôi dưỡng sự sùng tín của tín đồ, và để…chống Cộng như ở Fatima. Đây là những sự kiện đã được chứng minh, nhưng không ảnh hưởng gì đến “đức tin”.
Thật vậy, năm 1995, tại một làng bên Ý, hàng ngàn người kéo đến xem bức tượng Mary khóc ra máu. Hiện tượng này được giới “chăn chiên” giải thích là Đức Mẹ quá thương xót thế gian tội lỗi (phần lớn thuộc 7 núi tội lỗi của giáo hội Ca-Tô. TCN) nên khóc đến chảy máu mắt. Nhưng chuyện đáng nói ở đây là người ta đã lấy máu mắt này mang đi thử DNA và khám phá ra rằng máu đó là của đàn ông, không thể là của đàn bà. (Gospel Truth, p. 35: ..as recently as 1995, a statue of the Virgin “weeping tears of blood” drew thousands to a village in Italy, despite DNA analysis that proved the blood to be from a man). Trong một đoạn sau tôi sẽ giải thích về vấn đề thuộc lãnh vực khoa học này rõ ràng hơn.
Ngoài ra, chúng ta cũng biết ở bên Úc có vụ Đức Mẹ khóc ra dầu. Người ta đã khám phá ra là ông linh mục Mít ở đó đã bầy trò, chích dầu vào tượng. Ông Giám Mục địa phương người Úc đã bác bỏ “phép lạ” này, nhưng giáo dân Mít vẫn cứ ào ào đến lễ bái, khấn khứa, cầu kinh v…v… Người ta đã làm đủ trò để nhốt tín đồ vào trong vòng mê tín, thật là đáng buồn.. Buồn hơn nữa là giáo dân tin là tin, bất kể sự thật, dù khi bề trên bảo đừng có tin chuyện bầy trò ở Úc, giáo dân Việt Nam cũng vẫn bất chấp, cứ tin,. “Đức tin” của giáo dân Việt Nam nó là như vậy. Và giáo hội Ca-tô, qua những mánh mưu thuộc loại phép lạ ngụy tạo này, đã sống dai, sống mạnh vì nhờ vào loại “đức tin” này, và nhờ vào sự khai thác các giáo dân thấp kém, cấy vào đầu óc họ một sự cuồng tín không làm sao họ có thể dứt bỏ.
Đức Mẹ khóc ra máu bên Ý (trái) - Đức Mẹ khóc ra dầu ở Úc (phải)
Sau đây là vài câu giải thích điển hình về “Tại sao Đức Mẹ khóc?” tôi đọc trên Internet:
- Bởi Mẹ không muốn chúng ta bị hư đi, vì thế giới sắp bị thanh tẩy bằng máu và lửa. [Cái gọi là “sắp bị” này đáng lẽ đã phải xẩy ra cách đây 2000 năm rồi, ngay khi một số người theo Dê-su còn sống, Chúa Dê-su đã quả quyết như vậy nhiều lần trong Tân Ước. TCN]
- Lm Hoàng Minh Tuấn: ĐỨC MẸ KHÓC VÌ TA LÃNG QUÊN THÁNH KINH [Vì lãng quên Thánh Kinh nên mới sùng tín Đức Mẹ, chứ nếu đọc Thánh Kinh thì sẽ lãng quên luôn Đức Mẹ. TCN]
Những giải thích như trên chỉ là những suy đoán dựa trên niềm tin cá nhân về những gì chưa xẩy ra hoặc theo quan điểm riêng, chứ không dựa trên sự kiện.
Có một câu trả lời được cho là hay nhất đối với người Việt Nam, dựa trên sự kiện, trên:
Câu trả lời hay nhất - Do người đặt câu hỏi bình chọn
ĐỨC MẸ KHÓC VÌ ĐÁM CON CHIÊN CỦA CHÚA Ở THÁI HÀ MANG TƯỢNG ĐỨC MẸ RA ĐẶT Ở NƠI BẨN THỈU, MANG TƯỢNG CHÚA RA TREO TRÊN TƯỜNG TOILET, CHỬI BỚI TRƯỚC MẶT CHÚA, NHÂN DANH CHÚA LÀM NHỮNG ĐIỀU XẤU XA, HỌ LÀM NHƯ VẬY KHÁC GÌ MANG CHÚA ĐI ĐÓNG ĐINH MỘT LẦN NỮA, LÀ TÔI CÒN KHÓC HUỐNG CHI LÀ ĐỨC MẸ.......HUUUUUU.......HUUUUUUU… ...KHỔ QUÁ CHÚA ƠI, NHỤC NHÃ QUÁ CHÚA ƠI.
Nhưng có lẽ bài suy niệm của Lm Ngô Văn Thích về tại sao Đức Mẹ khóc, dựa trên những gì viết trong Tân Ước, có thể phần nào đúng với sự thật, nhưng khá thiếu sót, vì còn nhiều nguyên nhân sâu xa hơn, như tôi sẽ trình bày trong bài. Chúng ta hãy đọc Lm Ngô Văn Thích:
Đức Mẹ Khóc (bài suy niệm của Lm. Giuse Ngô Văn Thích):
Có lẽ việc Đức Mẹ khóc không có gì lạ lùng lắm, vì Mẹ đã khóc từ ngay sau khi Mẹ chân thành nói lên hai chữ “Xin Vâng”. [Nếu Mẹ từ chối thì thế giới đã tốt đẹp hơn nhiều. TCN]
1. Mẹ đã khóc vì có thể bị hiểu lầm mang thai mà không có chồng (Mt 1:18-25). [Các học giả nghiên cứu Thánh Kinh không có hiểu lầm mà hiểu rất đúng, Mary là cô gái ngoan, không ở trong “thế gian sự thường”. TCN]
2. Mẹ đã khóc vì có thể bị ném đá cho chết vì đã mang thai (Đnl 22:21). [Nhờ lòng từ bi của Joseph nên Mẹ thoát khỏi hình phạt này. TCN]
3. Mẹ đã khóc vì bơ vơ, vất vả không tìm được nơi trú ngụ khi trở về quê quán Belem, ghi danh vào sổ kiểm tra dân số theo lệnh hoàng đế Augustô (Lc 2:5). [Chuyện kiểm tra dân số mà mọi người phải về sinh quán để ghi danh vào sổ là chuyện không thể thực hiện và vô lý. TCN]
4. Mẹ đã khóc khi sinh Con Mẹ nơi hang lừa nghèo hèn (Lc 2:7). [Ca-tô Giáo ca tụng đây là dấu hiệu Dê-su xuống trần để phục vụ dân nghèo. TCN]
5. Mẹ đã khóc khi phải đem Con Mẹ mới sinh trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang tìm giết Con Mẹ (Mt 2:13-14). [Mẹ mang con Mẹ sang Ai Cập vì một thiên thần bảo Joseph phải làm như vậy trong một giấc mộng. TCN]
6. Mẹ đã khóc trong ngày đem Con Mẹ lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa, khi nghe ông già Simêon nói tiên tri về Con Mẹ “cháu bé này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” và về Mẹ “còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2:34-35). [Nhà tiên tri Simeon nói rất đúng, nhất là câu: “một lưỡi gươm sẽ đâm sâu vào tâm hồn (tim) bà. Xin đọc giải thích trong phần sau. TCN]
7. Mẹ đã khóc khi Mẹ mất Con sau lễ vượt qua tại Giêrusalem (Lc 2:41-50). [Không phải là mất con mà vì ông con, khi đó mới 12 tuổi, trốn ở lại Jerusalem mà không cho bố mẹ biết. TCN]
8. Mẹ đã khóc khi Con Mẹ bị chính người đồng hương rẻ rúng khinh khi (Mt 13:57). [Có nhiều lý do để Dê-su bị rẻ rúng khinh khi. TCN]
9. Mẹ đã khóc khi Con Mẹ bị môn đệ phản bội đem bán lấy ba mươi đồng bạc (Mt 26:14-16). [Đây chỉ là chuyện phịa. TCN]
10. Mẹ đã khóc khi nhóm môn đệ bỏ Con Mẹ mà trốn chạy (Mt 26:56). [Đó là những môn đệ không chịu làm thánh tử đạo như những kẻ ngu đạo cuồng tín. TCN]
11. Mẹ đã khóc khi Con Mẹ bị khạc nhổ đánh đập (Mt 26:67). [Cha Dê-su ở trên trời muốn vậy.]
12. Mẹ đã khóc khi môn đệ Phêrô chối Con Mẹ (Mt 26:69-75). [Nhưng Dê-su lại chọn Phê-rô để thành lập giáo hội Ca-tô, như giáo hội dạy. TCN]
13. Mẹ đã khóc khi Con Mẹ bị lên án, đội mạo gai, chế giễu, vác thập giá (Mt 27:27-33).
14. Mẹ đã khóc khi Con Mẹ bị đóng đinh trên thập giá giữa hai tên trộm cướp (Mt 27:35-38). [Mẹ khóc là vì tình mẹ con dù rằng đây là ý định Gót, cha Dê-su , muốn đóng đinh con một của mình trên thập giá, gọi là để chuộc tội cho nhân loại. TCN]
Muốn hiểu tại sao Đức Mẹ khóc, chúng ta cần trở lại chuyện Dê-su sinh ra đời. Chuyện Dê-su sinh ra từ Mary đồng trinh đã là đề tài nghiên cứu của nhiều người, gồm đủ thành phần trí thức trong xã hội: linh mục, giám mục, nhà thần học, học giả, giáo sư đại học v...v...
Trước hết, chúng ta hãy xem Tân Ước kể chuyện Dê-su sinh ra từ “Mary đồng trinh” ra sao. Trong Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về chuyện này, hai Phúc Âm này viết sau khi Dê-su chết từ 50 tới 70 năm, với nhiều chi tiết khác nhau. Phúc Âm Matthew (Mã-Thi) kể như sau, Matthew 1: 18-24:
Sự sinh ra của Dê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Dê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh. (she was found with child of the Holy Ghost.)
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Dê-su , vì nó sẽ cứu dân của nó [chỉ cứu dân Do Thái mà thôi] khỏi tội lỗi.
Việc xảy ra đúng như lời Gót tiên đoán qua nhà tiên tri Isaiah:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai là “they”?) sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Gót ở cùng ta”. [Isaiah 7: 14]
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Dê-su .
Chúng ta hãy phân tích đoạn trên trong Tân ước. Phân tích Thánh Kinh, Cựu Ước và Tân Ước, với đầu óc tỉnh táo, không mê mẩn, và với một chút lô-gíc là một nghệ thuật, vì chúng ta có thể khám phá ra nhiều điều kỳ thú để mà thưởng thức. Sự phân tích trí thức này không phải để chê bai hay bác bỏ “đức tin” của những người Ki-tô.
Đoạn trên thường được các linh mục viện dẫn và giảng trong nhà thờ là sự kiện Dê-su sinh ra đời phù hợp với lời tiên tri trong Cựu Ước, Isaiah 7: 14: “Cho nên, chính Gót sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” (Isaiah 7: 14: Therefore the Lord Himself will give you a sign: Behold, the virgin shall conceive and bear a son, and shall call his name Immanuel.) Nhưng đọc kỹ Thánh kinh, chúng ta thấy rõ ràng Matthew đã ngụy biện và để lộ nhiều sơ hở.
● Thật vậy, thứ nhất, trước khi Joseph giao hợp với Mary thì “người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.” (she was found with child of the Holy Ghost.) Người ta ở đây phải là dân trong vùng lân cận nhà Joseph và Mary, và khi đó bụng Mary to đã 6 tháng nên người ta mới thấy cô ta có mang.
Nhưng làm sao người ta biết đó là cô ta mang thai với Thánh Linh? Chuyện Mary mang thai với Thánh Linh khi đó chỉ có mình Joseph biết do một thiên sứ nói với Joseph trong một giấc mộng, và Joseph hiển nhiên là không muốn cho ai biết cái thai trong bụng Mary không phải của mình. Vả chăng, Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Mary càng ngày càng to, và đã định kín đáo từ hôn. Chắc chắn là Mary không thể tuyên bố cùng bàn dân thiên hạ là mình đang mang thai của Thánh Linh. Chẳng có ai tin và theo luật của Do Thái thì Mary phải bị ném đá cho đến chết. Nhưng ngay cả chuyện kín đáo từ hôn cũng không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật của Do Thái.
Randel Helms viết trong cuốn Những Chuyện Giả tưởng Trong Phúc Âm (Gospel Fictions), trang 48: “Có lẽ Matthew không biết là theo luật Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn phải hợp pháp và công khai” (Matthew was perhaps unaware that this (the marriage contract set aside quietly) was not possible under Jewish law; the process had to be legal and public.)
● Thứ nhì, chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc mộng của Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và Tân Ước không hề có chỗ nào viết là Joseph kể chuyện này cho ai. Matthew viết Phúc âm Matthew khoảng 60 năm sau khi Dê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Dê-su sinh ra đời. Matthew không thể là một nhân chứng trong giấc mộng của Joseph. Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của Dê-su .
Kết luận? Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần thánh hóa người mình sùng tín: Dê-su , theo niềm tin riêng của mình. Nhưng chính cái chuyện bày đặt này lại chứng tỏ Matthew không được thông minh cho lắm, vì ông ta đã dấu đầu hở đuôi. Ông ta bịa ra câu chuyện Thánh Linh làm cho Mary mang thai rồi biện minh bằng cách ngắt một câu ngoài ngữ cảnh trong Cựu Ước, Isaiah 7: 14, để chứng minh rằng Dê-su sinh ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước. Ông ta biết rằng dân thường thời đó, phần lớn là thất học, mù chữ, chẳng bao giờ đọc Cựu Ước, cũng như ngày nay, các linh mục lấy những đoạn trong Thánh Kinh, ngoài ngữ cảnh (out of context), để giảng cho tín đồ, vì biết tín đồ không bao giờ đọc Thánh Kinh, vì chính các linh mục có thể cũng không đọc Thánh Kinh, hoặc chỉ nhắc lại những gì họ được dạy để truyền đạo.
Thật vậy, câu trong Isaiah 7:14, “Cho nên, chính Gót sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” chẳng phải là lời tiên tri chuyện Dê-su ra đời mà là Isaiah nói ra trong một trường hợp khác hẳn. Đây là trường hợp vua Ahaz của xứ Judah (Nam Do Thái) đang bị hai kẻ thù, Syria và Israel (Bắc Do Thái) tấn công. Nhà “tiên tri” Isaiah của xứ Judah thời đó trấn an nhà vua bằng một lời “tiên tri”, rằng hai kẻ thù kia sẽ bị đánh bại. Khi nào? Lời “tiên tri” đầy đủ của Isaiah đã nói lên rõ ràng, Isaiah 7: 14-16:
Cho nên, chính Gót sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một một người đàn bà trẻ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.
Đứa trẻ đó sẽ ăn bơ và mật cho đến khi biết bỏ điều ác chọn điều thiện.
Nhưng trước khi đứa trẻ ấy biết bỏ điều ác, chọn điều thiện, thì đất nước của hai vua mà ngài đang sợ hãi sẽ bị hoang vu.
Chúng ta thấy ngay mánh mưu của Matthew trong việc trích dẫn Cựu Ước trên với mục đích truyền bá niềm tin riêng của mình. Truyền thống này kéo dài trong giáo hội Ca Tô cho tới ngày nay với những câu thêm thắt, ngụy tạo trong Tân Ước, cùng những lời diễn giảng cắt xén chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề. Và ngay nay các “bề trên”, không hiểu vì ngu dốt hay vì xảo quyệt, vẫn dạy tín đồ là Dê-su sinh ra từ một trinh nữ, đúng như lời “tiên tri” (sic) trong Cựu Ước. Mặt khác, Isaiah thường được coi như là một nhà đại tiên tri trong Cựu Ước.
Nhưng thực ra, Isaiah chỉ “tiên tri” láo, vì lời “tiên tri” trong Isaiah 7: 14-16 ở trên hoàn toàn sai với sự thực nếu chúng ta đọc II Sử Ký 28 (2 Chronicles 28) kể chuyện Ahaz xứ Judah bị hai nước đánh bại thê thảm như sau:
Ahaz được 20 tuổi khi lên ngôi, trị vì 16 năm tại Jerusalem.. Gót phó mặc Ahaz trong tay của vua Syria. Quân đội Syria đánh bại Ahaz, bắt vô số tù binh giải về Damascus. Gót cũng phó mặc Ahaz trong tay của vua Israel. Quân đội Israel đánh bại Ahaz qua một cuộc tàn sát lớn. Vì Pekah, con của Remaliah, đã giết một trăm hai mươi ngàn (120000) người Judah trong một ngày, tuy họ đều là dũng sĩ.. Và quân đội Israel cũng bắt đi hai trăm ngàn (200000) tù binh gồm đàn bà, con trai, con gái, và cướp đi hầu hết của cải và mang về Samaria.
● Thứ ba, trong văn bản gốc Thánh Kinh bằng tiếng Do Thái, Isaiah nói trong Isaiah 7: 14 là “Này, một người đàn bà trẻ đang mang thai..” (a young woman is with child) chứ không phải là một trinh nữ sẽ mang thai. Isaiah dùng chữ “almah”, có nghĩa là “người đàn bà trẻ” (young woman), có chồng hoặc chưa có chồng. Còn trinh nữ, tiếng Do Thái là “betulah”. Nếu Isaiah muốn nói đến một trinh nữ thì phải dùng chữ “betulah”. Trong thời điểm mà người Do Thái càng ngày càng đông ở Hi Lạp, các dịch giả đã dịch chữ “almah” thành “parthenos” trong tiếng Hi Lạp. Parthenos có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa này là trinh nữ. Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu trên từ Cựu Ước ra và diễn giảng lệch lạc rằng đó là lời tiên tri về sự sinh ra của Dê-su tuy sự thực câu trên chẳng liên quan gì đến sự sinh ra của Dê-su , như tôi vừa chứng minh ở trên.
● Thứ tư, nếu chúng ta không dùng đến đầu óc, cứ giáo hội dạy sao thì tin vậy, và tin rằng thực sự nhà tiên tri Isaiah đã tiên đoán sự sinh ra của Dê-su từ một trinh nữ, thì tên của đứa trẻ phải là Immanuel chứ không phải là Jesus.
● Thứ năm, câu cuối nói lên một sự kiện rõ ràng nhất: “Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Dê-su .” Câu này hàm ý Dê-su chỉ là đứa con đầu lòng của Mary, Mary còn nhiều đứa con khác nữa. Joseph chỉ không giao hợp với Mary cho đến khi Mary sinh ra Dê-su . Sau đó thì Joseph tha hồ làm bổn phận người chồng. Do đó, một đoạn khác trong Thánh Kinh mới kể rằng Dê-su có 4 người em trai và ít nhất là 2 em gái (Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Dê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon? Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon? And are not his sisters here with us?). Vậy mà Mary vẫn còn đồng trinh cho tới bây giờ, thế kỷ 21, năm 2013. Nghệ thuật nhồi sọ của Ca Tô Giáo quả thật là tuyệt vời trong việc điều kiện hóa đầu óc tín đồ. Nhưng đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và cổ sử thì câu “Đây có phải là anh thợ mộc, con bà Mary” lại nói lên một chuyện khác. Theo truyền thống Do Thái thời bấy giờ thì dân chúng thường gọi một người còn trẻ là con ông này, con ông nọ, chứ không bao giờ gọi là con của bà này, bà nọ. Gia hệ của Dê-su trong Matthew và Luke đều kể tên đàn ông qua nhiều đời. Trường hợp gọi một người là con của bà này, bà nọ là để ám chỉ bà đó có tai tiếng về tình dục như một số phụ nữ khác trong Cựu Ước, và đứa con đó là đứa con hoang (bastard).
Thật vậy, trong tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, có bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), về Dê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now). Tác giả viện dẫn Phúc Âm James và viết như sau:
Chuyện người ta cho rằng Dê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6, “Đây có phải là con bà Mary không?” Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường. Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera. Chuyện sinh ra đời của Dê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai. (1)
Nhiều học giả cho rằng, rất có thể những chuyện Dê-su sinh ra từ một trinh nữ trong Matthew và Luke được tạo ra để che đậy những phê bình phân tích về Ki Tô Giáo trong thế kỷ đầu: Dê-su là một đứa con hoang của Mary. Rải rác trong các Phúc Âm có những chi tiết chứng tỏ như vậy, nếu chúng ta biết đọc những bản văn này. Cũng vì vậy mà Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Dê-su Sinh Ra Đời, đã đưa ra nhận xét:
Ông ta (Dê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ . (2)
Năm 1995, Giáo sư Thần Học Công Giáo Uta Ranke-Heinemann, nữ giáo sư duy nhất chiếm được ngôi vị giáo sư Thần Học Ca-Tô trong hệ thống quyền lực Ca-tô, đã xuất bản cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things) trong đó giáo sư đã phân tích rất kỹ và coi những chuyện trong Tân Ước như “Chuyện Giáng Sinh của Luke” (Luke’s Christmas Fairy Tale); “Chuyện Dê-su sinh ra từ Một Nữ trinh” (The Virgin Mother); “Gia phả của Dê-su ” (Jesus’ Genealogies); “Những phép lạ của Dê-su ” (Miraculous Fairy Tales); “Ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp: Ngày Chúa chết” (Good Friday); “Chuyện Judas phản Chúa” (The fairy Tale of Judas the Traitor); “Chuyện Phục Sinh” (Easter); “Chuyện Thăng Thiên” (Ascension) v..v.. đều là những chuyện trẻ con, không còn một giá trị nào trong thế giới của những người trí thức ngày nay.
Điều lạ ngày nay chính là hàng triệu người vẫn còn tin những chuyện đó trong Tân Ước như là những sự kiện lịch sử, vẫn còn hàng triệu người tin rằng Dê-su thực sự sinh ra từ một nữ trinh, kết quả sự xâm nhập vào thân thể của một Thánh Ma (Holy Ghost), tin rằng Dê-su đã sống lại và bay lên trời, hiện đang ở thiên đường, ngồi bên phải Chúa Cha, và nhất là có khả năng để “cứu rỗi”, cho những người tin ông ta lên thiên đường (mù) ở với ông ta đời đời v..v... Và đây cũng chính là thảm họa của thế giới.
Về chuyện Dê-su sinh ra từ một trinh nữ, giáo sư Uta Ranke-Heinemann viết như sau, dựa trên những hiểu biết về khoa học hiện đại:
Sự sinh ra của Dê-su không nói đến một khái niệm nào về sự truyền giống của con người. Không có sự dự phần nào của người đàn ông, hoàn toàn không có. Sự tạo nên Dê-su là tác phẩm sáng tạo đặc biệt của Gót, có thể so sánh với sự sáng tạo ra Adam từ một nắm đất sét. Tuy nhiên, người đàn bà không phải là một nắm đất sét. Tất cả câu chuyện về phép lạ sinh ra từ một trinh nữ được dựng lên ở một thời mà không ai biết gì về cái tế bào trứng của phái nữ. Câu chuyện về sự sinh ra từ một trinh nữ chỉ có thể nói lên ở một thời mà người đàn bà bị coi như là giữ một vai trò hoàn toàn thụ động. Cho đến khi tế bào trứng được khám phá ra năm 1827, các nhà Thần học, kể cả Luke và Matthew, nghĩ rằng đàn bà không hơn gì một chậu đất để trồng hoa mà người đàn ông đặt hạt giống của mình vào và từ đó sinh ra đứa trẻ. Lối suy nghĩ như vậy bắt nguồn từ quan niệm về sinh học của Aristotle, coi người đàn bà như là cái bình chứa trống rỗng để gây giống cho người đàn ông. Người đàn ông làm tất cả trong sự truyền giống....
Do đó, theo cái mẫu cổ xưa này, Matthew và Luke nghĩ rằng nếu loại bỏ một người cha trên trái đất sinh ra Dê-su thì chỉ có mình Gót là chủ lực tạo ra Dê-su . Họ không thể nghĩ rằng, để sinh ra một người, cần phải có hai cộng sự viên đồng đẳng, và dù cho con người được thay thế bằng Gót, thì Gót cũng không phải là nguyên lý duy nhất tạo ra con người.
Kể từ khi khám phá ra tế bào trứng của người đàn bà - và do đó người đàn bà phải dự phần trong việc truyền giống - ý tưởng truyền thống về chuyện Dê-su sinh ra từ một trinh nữ do hành động sáng tạo đơn độc của Gót đã trở thành không có cách nào có thể biện minh cho được.
Do đó, sự vô minh, thiếu hiểu biết, đã được dùng làm nền tảng cho ý tưởng là Dê-su được sinh ra từ một trinh nữ do quyền phép của Thánh Linh mà không cần đến giao hợp.
Ngoài ra, chúng ta cần phải xét đến điều này: Trong trường hợp một trinh nữ thụ thai thì tế bào đầu tiên của cơ thể Dê-su phải là một tế bào của phái nữ. Và nếu bằng một phép lạ nào đó mà cái tế bào này phân chia ra mà không cần đến sự tham dự của người đàn ông, và tiếp tục phân chia để hình thành một con người, thì cái sự thụ thai đồng trinh này, khi sinh đứa bé ra, bắt buộc phải là một đứa bé gái. (3)
Giáo sư Uta Ranke-Heinemann không giải thích tại sao sự thụ thai dồng trinh chỉ có thể sinh ra một đứa con gái trong cuốn sách của bà. Có lẽ bà cho rằng độc giả đều cập nhật hóa những kiến thức ngày nay về sinh học, cho nên không cần giải thích. Tôi không nghĩ vậy, nhất là đối với những tín đồ Ca-Tô Việt Nam, cho nên tôi xin có vài lời giải thích để vấn đề thêm rõ ràng.
Khoa học ngày nay đã chứng minh rằng: bộ đầy đủ “gien” (complete set of genes) của con người, danh từ khoa học gọi là “genome”, gồm có 23 sắc tố (chromosome) thuộc cha và 23 sắc tố thuộc mẹ, cặp với nhau thành 23 cặp riêng rẽ sắc tố. Các khoa học gia đã xếp các cặp sắc tố này từ cỡ lớn nhất (số 1) cho tới cỡ nhỏ nhất (số 22), còn cặp sắc tố sau cùng chính là cặp “sắc tố định giống” (sex chromosome) gồm có: 2 sắc tố X trong cơ thể của đàn bà, và 1 sắc tố X và 1 sắc tố Y nhỏ hơn trong cơ thể của người đàn ông. Về kích thước thì sắc tố X vào khoảng giữa hai cặp sắc tố 7 và 8, còn sắc tố Y thì nhỏ nhất. Chính cặp sắc tố sau cùng này sẽ quyết định đứa bé sinh ra là con trai hay con gái, tóc vàng hay tóc đen, mắt nâu hay mắt xanh v..v..
Cơ thể con người có vào khoảng 100 ngàn tỷ (Trillion) tế bào (cell). Trong mỗi tế bào có một nhân (nucleus). Trong nhân tế bào có 2 bộ đầy đủ genome: một bộ genome của người cha và một bộ genome của người mẹ. Mỗi bộ genome có vào khoảng từ 60000 đến 80000 “gien” (Genes).
Như trên đã nói, cặp sắc tố quyết định giống của đàn bà là 2 sắc tố X (X,X), và của đàn ông là 1 X và 1 Y (X,Y). Trong quá trình truyền giống, nếu sắc tố X của đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con gái. Còn nếu sắc tố Y của người đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con trai. Do đó, một mình Mary, nếu thực sự thụ thai mà không do giao hợp với đàn ông và không có tinh khí của đàn ông thì không thể nào sinh ra con trai được.
Thật vậy, những chi tiết về gia phả và sự sinh ra của Dê-su trong Tân Ước có quá nhiều mâu thuẫn nên không cho phép bất cứ ai khẳng định ông ta đích thực là con của ai, sinh ra ngày nào, và ở đâu. Phúc Âm Matthew viết là Dê-su sinh ra trong triều đại của vua Herod, nhưng lịch sử lại chứng tỏ rằng Vua Herod chết vào năm – 4, nghĩa là 4 năm trước khi Chúa sinh ra đời. Phúc Âm Luke cho rằng Dê-su sinh ra trong thời có cuộc kiểm tra dân số của Quirinius, Toàn Quyền Syria và Judea (Do Thái). Nhưng lịch sử lại chứng tỏ rằng cuộc kiểm tra này xảy ra năm 6-7, nghĩa là 6-7 năm sau khi Chúa sinh ra đời. Sự mâu thuẫn trong hai Phúc Âm trên là một bài toán nan giải cho các nhà thần học Ki Tô Giáo. Cho nên rút cuộc họ dạy tín đồ là “cứ tin đi thì sẽ được tất cả” và tín đồ, vì cái “được tất cả” đó cho nên không cần biết đến những mâu thuẫn trong Tân Ước và tiếp tục tin rằng ngày “Chúa của họ sinh ra đời” đúng là ngày 25 tháng 12 theo Thường Lịch. Niềm tin này vô hại, chỉ lợi cho những nhà buôn bán, khai thác triệt để sự mê tín pha trộn với sự kém hiểu biết trong dân gian, để bán hàng.
Mặt khác, Tân Ước viết rằng Dê-su là con của Joseph, thuộc dòng dõi vua David, một điều kiện để người Do Thái có thể chấp nhận Dê-su là đấng cứu tinh của dân Do Thái đang rên xiết dưới ách nô lệ của La Mã. Tân ước cũng lại viết rằng, Dê-su chính là con của Chúa Thánh Thần, một con ma thánh (Holy Ghost) phi vật chất. Do đó, Dê-su là Con duy nhất của Gót, và cũng do đó, Dê-su chính là Gót, và cũng do đó, Dê-su chính là Con Ma Thánh, theo thuyết Chúa Ba Ngôi Nhất Thể của Ki Tô Giáo, một thuyết điên rồ toán học (mathematical insanity): ba chính là một, một cũng chính là ba. Theo thuyết này thì với lô-gíc thông thường, Dê-su vừa là cha, vừa là chồng và vừa là con của Mary. Tất nhiên, đã là Thánh Kinh của Ki Tô Giáo hoặc đã là những lời “Giáo hội (Công giáo) dạy rằng :....) thì không thể nào sai lầm, cho nên tín đồ Ki Tô Giáo, bắt buộc phải tin mọi điều Thánh Kinh viết, hoặc bắt buộc phải tin những lời “Giáo Hội dạy rằng...” là không thể nào sai lầm. Đó là cốt tủy “đức tin” trong Ca-tô Giáo, không có “đức tin” thì không được Dê-su cứu rỗi, cho lên Thiên Đường sống đời đời với ông ta, lẽ dĩ nhiên là sau khi chết, vì chính Dê-su cũng đã chết rồi, và bây giờ không biết ở đâu, nhưng chắc chắn không phải ở trên thiên đường, vì chính Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường trên các tầng mây..
Dê-su sinh ra như thế nào? Ai là cha? Có lẽ chỉ có mình “Đức Mẹ”, khi đó mới chỉ là một cô gái vị thành niên 15 tuổi, mới biết rõ ai là cha thực của Dê-su , nhưng vì một lý do rất tế nhị thuộc loại “cấm ngoại thủy không ai được biết” của Hồ Xuân Hương, nên cô ta không nói ra, và những điều mà chúng ta biết về sự sinh ra của Dê-su là do 2 người viết Phúc Âm, không có người nào là tông đồ của Dê-su : Matthew, Luke, kể lại sau khi Dê-su bị đóng đinh trên cây thập giá, chết và táng xác, đã từ 50-60 năm (Matthew và Luke), nghĩa là 80,90 năm sau ngày “giáng sinh” của Dê-su .. Mark và John đều không viết gì về “giáng sinh”, chỉ có Matthew và Luke, cóp nhặt hầu như nguyên văn của Mark và thêm vào chuyện “giáng sinh”, mỗi chuyện một khác. Mặt khác, chính Joseph, cha hờ của Dê-su , dòng dõi vua David, cũng không biết ai là cha thực của Dê-su , nhưng vì được thiên sứ ra lệnh phải cưới Mary làm vợ nên đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt.
Tuy nhiên, trong Ki Tô Giáo không phải là không có những những người còn dám dùng đến lý trí, khả năng phán đoán của con người. Điển hình là Giám mục Tin Lành John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu kỹ Tân Ước, đã viết trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Về Sự Sinh Ra Của Dê-su (Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus) như sau:
Dê-su được diễn giảng bởi những tín đồ Ki Tô lúc đầu theo những quan niệm về Thiên Chúa mà họ tin tuyệt đối, dựa theo hình ảnh của một ông vua trên trời. Điểm chủ yếu là hình ảnh Dê-su ngồi bên phải của cái ngai Chúa Cha ngồi trên trời. Hình ảnh này phản ánh niềm tin huyền thoại phổ thông thời đó về một vũ trụ được coi như là một vương quốc. Nhưng Dê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”. Sự sinh ra đời của Dê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Dê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu(4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ. (4)
Vì sự sinh ra của Dê-su đặc biệt và rắc rối như vậy cho nên đi kèm với sự “giáng sinh” của Dê-su cũng có nhiều hiện tượng trái với thiên nhiên. Một trong những hiện tượng trái thiên nhiên này là ngôi sao ở Bethlehem, hay viết tắt theo tiếng Mỹ quen thuộc là S.O.B. Chúng ta nên để ý là trong 4 Phúc Âm thì chỉ có Matthew là đưa ra câu chuyện về S.O.B., còn 3 Phúc Âm kia đều không biết đến hiện tượng kỳ lạ này, và ngoài Matthew ra, không có bất cứ một tài liệu nào của bất cứ sử gia nào ở ngoài Ki Tô Giáo ghi nhận một hiện tượng kỳ lạ vô tiền khoáng hậu như là hiện tượng S.O.B. Muốn hiểu rõ tại sao lại như vậy, chúng ta hãy đọc câu chuyện về S.O.B. này trong Tân Ước:
“Matthew 2: Sau khi Chúa Giê-su sinh ra ở Bethlehem xứ Giu-đê vào đời vua Hê-rốt, thì có mấy nhà thông thái (wise men) từ phía Đông đến Jerusalem và hỏi: “Vua của dân Do Thái mới sinh ra đời ở đâu? Vì chúng tôi đã nhìn thấy ngôi sao của Ngài ở phía Đông nên đến đây để thờ phượng Ngài.” Khi vua Hê-rốt nghe được những điều này ông ta rất bối rối.. Rồi Hê-rốt, sau khi triệu mấy nhà chiêm tinh vào và hỏi kỹ khi nào ngôi sao hiện ra. Rồi Herod hỏi họ là Christ sinh ra ở đâu. Họ bảo theo tiên tri trong Cựu Ước thì ở Bethlehem. Rồi Vua bảo mấy nhà thông thái đi đến Bethlehem tìm xem Dê-su sinh ra ở đâu rồi về báo cho ông ta biết để ông ta cũng đến thờ phụng....
Họ liền đi, và kìa, ngôi sao mà họ nhìn thấy ở phía Đông, đi trước họ[went before them] cho đến khi đứng lại ngay trên chỗ của đứa trẻ. Khi họ nhìn thấy ngôi sao, họ vô cùng mừng rỡ.” (5)
Thánh Kinh là những lời mạc khải của Gót, Gót của Ki Tô Giáo, nên không thể sai lầm, lẽ dĩ nhiên là đối với các tín đồ Ki Tô Giáo. Chúng ta không thể trách Gót về sự hiểu biết của Ngài về vũ trụ tuy chính Ngài đã “sáng tạo” ra vũ trụ. Cách đây 2000 năm thì trình độ hiểu biết của Gót của Ki Tô Giáo ở trong Thánh Kinh chỉ có vậy. Trăng sao là đèn đóm (xem Kinh Thánh, Nguyễn Thế Thuấn, Sáng Thế 1: 17) tối tối Gót sai các thiên thần của Ngài mang ra treo trên vòm trời và đến ngày tận thế mà “nhà tiên tri Dê-su ”, alias Chúa Con, đã khẳng định là “sắp xảy ra”, ngay trong thời mà một số tông đồ của ông còn sống, thì các tinh tú trên trời, nghĩa là những đèn đóm treo trên vòm trời, sẽ rơi rụng như sung (Xem Thánh Kinh, Khải Thị 6: 13), và khi đó “trời sẽ tối đen như mực, trăng sẽ đỏ như máu”. Với trình độ hiểu biết về trăng sao như vậy cho nên Matthew mới viết nên hiện tượng kỳ lạ của S.O.B.. Chúng ta cũng không thể trách Gót của Ki Tô Giáo là không biết rằng mặt trăng sáng là do ánh sáng của mặt trời chiếu tới. Nếu trời tối đen như mực, nghĩa là mặt trời không còn ánh sáng, thì tất nhiên mặt trăng cũng phải tối đen như mực, chứ không thể nào lại đỏ như máu. Nhưng đó lại chính là những lời khải thị của Gót toàn năng, toàn trí (nghĩa là cái gì cũng biết, quá khứ vị lai đều biết cả) của Ki Tô Giáo, cho nên các tín đồ Ki Tô Giáo không thể không tin. Bởi vì không tin điều này thì kéo theo việc không tin tất cả những điều khác mà Gót đã khải thị, vì không có một căn bản nào có thể dựa vào đó để mà quyết định lời khải thị nào đúng, lời khải thị nào sai? Và như vậy thì sẽ không được lên thiên đàng, không “được tất cả”. Vấn đề chính là ở vài cái bánh vẽ trên trời này.
Trở lại câu chuyện S.O.B. trong Thánh Kinh. Trước hết, có lẽ chúng ta cũng nên biết thế nào là một ngôi sao?
Một ngôi sao chẳng qua chỉ là một khối cầu khí nóng (hot ball of gas), đúng ra là một khối cầu plasma gồm nhân nguyên tử Hydrogen (proton), nhân nguyên tử Helium và điện tử (electron), tụ lại với nhau do lực vạn vật hấp dẫn (gravity), và sáng vì những hạt nhân nguyên tử trong đó đụng nhau với vận tốc rất cao đưa đến sự giao hạch (nuclear fusion), nghĩa là sự giao hoặc tổ hợp của hai hạt nhân nguyên tử nhẹ (proton) để tạo thành một nhân nguyên tử nặng hơn (Helium) và do đó phát ra nhiệt hay năng lượng. Mặt Trời trong Thái Dương Hệ của chúng ta cũng chỉ là một ngôi sao nhỏ.
Nhiệt độ của một ngôi sao là bao nhiêu độ? Ở trung tâm, nhiệt độ của một ngôi sao vào khoảng từ 15 đến 60 triệu độ. Kích thước của một ngôi sao là bao nhiêu? Các khoa học gia thường lấy kích thước của Mặt Trời làm chuẩn. Các ngôi sao thông thường có kích thước từ 1/10 cho tới 10 lần kích thước của Mặt Trời (có đường kính vào khoảng 1 triệu 400 ngàn cây số). Do đó, kích thước của một vị sao là có đường kính từ 140,000 cây số đến 14 triệu cây số. Đường kính của trái đất chỉ vào khoảng 13,000 cây số. Sao ở cách xa chúng ta bao nhiêu? Ngôi sao Proxima Centauri gần Thái Dương Hệ nhất, nghĩa là gần chúng ta nhất, cách chúng ta khoảng 1.3 parsecs, nghĩa là vào khoảng “40 Ngàn Tỷ” (40 x 10 12 = 40 trillion) cây số (km). Vì ở cách xa trái đất như vậy nên các sao, dù vô cùng lớn, cũng chỉ là những điểm sáng trên bầu trời.
Các khoa học gia, trải qua 20 thế kỷ, đã chịu thua, không biết gì về S.O.B., một ngôi sao liên hệ đến “Đêm Thánh Bethlehem”. Tại sao vậy? Vì S.O.B. không nằm trong địa hạt khảo cứu của khoa học. Khoa học không có khuynh hướng tin nhảm tin nhí. Tại sao lại bảo là tin nhảm tin nhí? Vì không có ngôi sao nào có thể lừng lững đi trước dẫn đường cho khách bộ hành đi từ Jerusalem đến Bethlehem rồi đứng lại ở trên một cái nhà trong đó Chúa Dê-su của Ki Tô Giáo vừa mới sinh ra như được viết trong Tân Ước, những lời mạc khải không thể sai lầm của Gót của Ki Tô Giáo. Một ngôi sao không đi dẫn đường mà vì trái đất quay nên ta thấy ngôi sao như đang di chuyển. Nhưng sao ngừng có nghĩa là trái đất ngừng. Nếu trái đất đang quay với vận tốc là 1040 miles/giờ ( 1670km/giờ) và đột nhiên ngừng lại thì cái gì sẽ xẩy ra? Xin để cho các vô thượng thiên tài trí thức Ca-Tô-Giáo, từ giáo hoàng trở xuống đến các “Chúa thứ hai” cho đến các dân Chúa, trí thức hay không, giải đáp. Nếu không biết cách giải đáp thì tôi xin giúp quý vị một câu giải đáp dễ nhất, mượn ý của Lm Thiện Cẩm: “Chúa toàn năng đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài thì làm gì chẳng được, Ông thấy có vấn đề chứ chúng tôi đã có “đức tin” thì không thấy vấn đề gì cả.”
Mặt khác, khoảng cách từ Jerusalem tới Bethlehem vào khoảng 10 cây số. Chúng ta có thể làm một thí nghiệm: định vị một ngôi sao trên trời rồi lái xe theo bất cứ hướng nào, Đông, Tây, Nam, Bắc, độ 10 cây số, xem xem vị trí của ngôi sao có thay đổi chút nào hay không? Muốn hướng dẫn các nhà chiêm tinh đến đúng nơi Chúa Dê-su , nghĩa là Vua của Do Thái và của Do Thái mà thôi, như được viết trong Thánh Kinh, sinh ra đời, thì S.O.B. phải dừng ngay rất gần trên mái nhà nơi “Chúa giáng sinh”. Với kích thước, nhiệt độ của một ngôi sao như vậy thì còn đâu là Chúa với chẳng Chúa, cả trái đất này sẽ bị thiêu hủy ngay tức khắc. Còn một ngôi sao ở đúng vị trí của ngôi sao trên trời thì tôi thách đố bất cứ nhà thần học nào, từ giáo hoàng Ca-tô trở xuống cho tới các đại trí thức Ca-tô bất cứ thuộc quốc gia nào, có thể cho tôi biết là ngôi sao đó đứng trên ngôi nhà nào trên một diện tích 100 cây số vuông, nghĩa là diện tích một hình vuông mà mỗi cạnh có chiều dài là 10 cây số, khoảng cách từ Jerusalem tới Bethlehem? Cũng vì vậy mà đối với giới trí thức, S.O.B đúng chỉ là một S.O.B, và là chuyện nhảm nhí, phi lôgic, phản khoa học.
Chuyện ngôi sao lạ, hay S.O.B., cùng những chuyện lạ khác trong Tân Ước ngày nay không còn là những chuyện lạ nữa trước khối lượng nghiên cứu hiện đại nhất của hàng ngàn học giả về Thánh Kinh và nhất là về nhân vật Dê-su . Chúng ta hãy đọc thêm vài trích dẫn trên hai tờ tuần báo có nhiều độc giả nhất trên nước Mỹ, Newsweek và Time.
Tờ Newsweek và tờ Time, số ngày 13 tháng 12, 2004, đều có một bài dài về chuyện Dê-su sinh ra đời. Chúng ta có thể đọc trong đó nhiều chi tiết xung quanh huyền thoại giáng sinh của Dê-su .
Chúng ta có thể biết tại sao chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là viết về sự sinh ra của Giê-su và lại viết rất khác nhau, trong khi Phúc Âm viết đầu tiên là Phúc Âm Mark và Phúc Âm sau cùng, John lại không viết gì về sự “giáng sinh của Chúa Con” và các phần còn lại của Tân ước cũng không viết gì về sự tích Dê-su sinh ra đời..
Theo tờ Newsweek, trong Phúc Âm Luke thiên thần Gabriel hiện lên trước Mary và báo cho Mary là Con Ma Thánh (Holy Ghost) sẽ làm cho Mary mang thai, nhưng trong Phúc Âm Matthew thì Joseph (hôn phu của Mary) không biết gì về chuyện thiên thần Gabriel hiện ra, cảm thấy nhục nhã vì Mary có mang trước khi ăn nằm với mình, nên định kín đáo bỏ Mary, nếu không nhờ có một thiên thần báo cho biết trong một giấc mộng là cái thai Mary đang mang là của con Ma Thánh (Holy Ghost). [Ngày nay, người nào còn tin thiên thần hiện ra hay thiên thần báo mộng là những sự thực lịch sử thì người đó tất nhiên có đầu óc thuộc loại đầu óc Ca-tô]. Vì thế trong nhiều năm sau những người Ki-tô phải đối đầu với những lời buộc tội Chúa của họ là đứa con hoang, có thể là con của Mary và một tên lính La Mã.
Ngày nay, vào đầu thế kỷ 21, một số học giả cho rằng những câu chuyện về giáng sinh chỉ là những phát minh trong thế kỷ đầu để củng cố điều khẳng định Dê-su là đấng cứu thế (In the Gospel of Matthew, Joseph, knowing nothing about Gabriel’s appearance, is humiliated by the news that his future wife is pregnant, and “was minded to put her away privily”. In later years Christians had to contend with charges that their Lord was illegitimate, perhaps the illicit offspring of Mary and a Roman soldier. Now, at the beginning of the 21st century, some scholars treat the Christmas narratives as first-century intentions designed to strenghthen the seemingly tenuous claim that Jesus was the Messiah). Chuyện Dê-su là Con của Gót chỉ là một mưu chước quen thuộc để khuyến dụ quần chúng đã quen thuộc với Kinh Thánh Do Thái [Cựu ước] (a device familiar to the audience accustomed to the Hebrew Bible). Huyền thoại Giáng sinh của Dê-su phỏng theo những huyền thoại sinh ra đời của Alexander the Great và Caesar Augustus và ngay cả của Plato và Romulus, quen thuộc với dân Hi Lạp và La Mã.
Nhưng bất kể những kết quả nghiên cứu hiện đại, người Ki-tô tin là tin, không cần biết, không cần hiểu, như Mục sư Tin Lành H. B. London phát biểu: “Tuy những người khác có thể đặt nghi vấn về giá trị lịch sử của những vấn đề như Dê-su sinh ra từ một trinh nữ, cái chết và sự sống lại của Dê-su Ki-tô, chúng tôi thì không” (Though other people may question the historical validity of the virgin birth, and the death and the resurrection of Jesus Christ, we don’t) và Mục sư London thú nhận “Đức tin của chúng tôi có phần nào giống như là của trẻ con” (Our faith is somewhat childlike). Quan điểm của London được số đông quần chúng ủng hộ (London’s view has vast public support). Nước Mỹ đa số theo Tin Lành, và vì Tin Lành có đức tin như của trẻ con, nên một cuộc thăm dò ý kiến của Newsweek cho biết 82% tin Dê-su là Gót hay Con của Gót, 79% tin vào huyền thoại Dê-su sinh ra từ một trinh nữ, và 67% cho rằng chuyện giáng sinh – từ sự hiện ra của thiên thần Gabriel đến ngôi sao ở Bethlehem (S.O.B.) – là đúng như lịch sử (historically accurate). [Lẽ dĩ nhiên những người này không hiểu thế nào là một ngôi sao và không hiểu rằng nếu không có tinh khí của đàn ông thì Mary chỉ có thể sinh con gái, cũng như nếu Gót lấy một cái xương sườn của Adam để “clone” thành ra một người khác thì người đó chỉ có thể là Steve (đàn ông) chứ không thể là Eve. Khoa Sinh Học Di Truyền đã chứng minh như vậy, dựa trên những cặp sex chromosomes khác nhau, X,X của đàn bà và X,Y của đàn ông. TCN]
Tờ Time cũng có những thông tin tương tự và còn nói rõ tên của người lính La Mã lăng nhăng với Mary là Panthera. Riêng về chuyện S.O.B. và những Magi đi theo ngôi sao để đến chầu Chúa mới sinh thì tờ Time đưa ra nhiều chi tiết hơn. Theo tờ Time thì danh từ Magi trong Phúc Âm Matthew rất mơ hồ (vague) vì nó có thể chỉ những nhà chiêm tinh (astronomers), những nhà thông thái (wise men), hay những người làm trò quỷ thuật (magicians). Nhưng lịch sử giáo hội Ca-tô nổi tiếng về ngụy tạo, nên vào thế kỷ 2, những Magi đã được đôn lên làm các Vua miền Đông (As early as the 2nd century, they were promoted to Kings (from the East)). Con số Magi mới đầu thay đổi từ 2 đến 12, sau cùng được định là 3. Đến thế kỷ 8, Giáo hội đặt tên cho 3 ông vua này là Melchior, Gaspar và Balthasar và có mầu da khác nhau: trắng, nâu, và đen (không có da vàng trong này).
Đến chuyện S.O.B. thì còn vui hơn nữa. Học giả Ki-tô A. N. Wilson, tác giả những cuốn Đám Tang Thượng Đế (God’s Funeral) và Dê-su : Một Đời Sống (Jesus: A Life) lưu ý: “Những nhà thiên văn học sẽ không bao giờ kiếm thấy S.O.B thật vì S.O.B. là vật tưởng tượng của chúng ta” (Astronomers will never find the real star of Bethlehem because the real star of Bethlehem is a thing of our imagination). Còn Linh mục Raymond Brown, một học giả Ki-tô nổi tiếng, theo dõi hành trình của S.O.B trong Phúc Âm Matthew và đưa ra một nhận xét châm biếm về S.O.B. như sau:
“Một thiên thể được lái như một chiếc xe, quay chiều đi tới ba điểm. Một ngôi sao mọc lên ở phía Đông, đi sang phía Tây đến Jerusalem, rồi quay đầu xuống phía Nam tới Bethlehem, và rồi đứng lại trên một ngôi nhà, phải là một hiện tượng ở trên trời chưa từng thấy trong lịch sử thiên văn học. Vậy mà (ngoài Phúc Âm Matthew) không có một sự ghi nhận nào trong thời đó.” (6)
Chuyện Dê-su sinh ra từ một trinh nữ còn dài dài như chuyện nhân dân tự vệ, nhưng tôi bắt buộc phải cắt ngắn để trở về những luận cứ của tôi về chủ đề: “Tại sao Đức Mẹ khóc?”. Phần suy niệm của tôi sau đây dựa một phần trên bài suy niệm của Lm Ngô Văn Thích
Tượng Đức Mẹ ở Sài Gòn ...khóc
(Khi có mấy linh mục không tin, bảo con chiên là không phải Đức Mẹ khóc, thì giáo dân VN cương quyết: Các cha không tin, để chúng con tin)
Mục sư Paul, Hoa Kỳ, giảng tại Naju [Nam Hàn], 2009. Đức Mẹ trong tranh khóc
Vài hình ảnh Đức Mẹ khóc
Trong bài suy niệm của Lm Ngô Văn Thích, chúng ta đọc được câu:
5. Mẹ đã khóc khi phải đem Con Mẹ mới sinh trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang tìm giết Con Mẹ (Mt 2:13-14).
Để hiểu rõ hơn, chúng ta hãy đọc đoạn sau trong Tân Ước, (Matthew 2: 12-23):
Sau khi chiêm bái Chúa hài nhi, mấy nhà thông thái, hay chiêm tinh, không trở lại báo cho Herod biết nơi Dê-su sinh ra đời, và quay trở về nơi sống của họ.. Joseph được một thiên thần báo mộng là: “Hãy đem hài nhi và vợ trốn sang Ai Cập, ở đó cho đến khi tôi báo lại cho biết, vì vua Herod sắp tìm kiếm để giết hài nhi đấy. Đang đêm, Joseph liền đưa hai mẹ con hài nhi trốn sang Ai Cập. Vua Herod thấy mình bị lừa, vì các nhà thông thái không trở lại báo cho ông ta biết nơi Dê-su sinh ra đời, nên nổi giận, sai quân đi giết tất cả những những đứa trẻ từ hai tuổi trở xuống ở Bethlehem và vùng lân cận. Sau khi vua Herod chết thì thiên thần lại báo mộng cho Joseph bảo phải trở về Israel vì Herod đã chết rồi. Joseph bèn đưa hai mẹ con Dê-su về đất Israel, nhưng không trở lại Bethlehem mà về Nazareth. [Nên để ý là tất cả những chuyện trên, trốn đi Ai Cập, trở về Nazareth, Matthew cho là ứng nghiệm với những lời tiên tri trong Cựu Ước. TCN]
Đọc bài suy niệm của Lm Ngô Văn Thích chúng ta thấy ông ta đã hạ thấp giá trị của Đức Mẹ rất nhiều. Tất cả những gì mà Lm Thích nói về tại sao Đức Mẹ khóc chỉ là vì những thảm trạng của cá nhân cô bé Mary hay của gia đình Dê-su . Chúng ta biết rằng, sau khi Dê-su chết thì Giáo hội Ca-tô đặt ra những danh hiệu như sau cho Mary, coi đó như là những tín lý (dogma) mà các tín đồ bắt buộc phải tin, không tin thì không được lên thiên đường:
“Mẹ của Gót” (Mother of God), “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace), “Thiên Nữ Vương” (Queen of Heaven), “Thụ Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Immaculate Conception), “Còn trinh vĩnh viễn” (Perpetual Virginity), “Thăng Thiên” (Assumption) hay “Đồng Công Cứu chuộc” (Co-redemptrix) v..v...
Như vậy thì Đức Mẹ không chỉ hẹp hòi quan tâm đến những khổ nạn xẩy ra cho bản thân và gia đình mà còn quan tâm đến tất cả những sự khổ trên thế gian.
Vậy thì tôi xin các bạn đọc hãy tưởng tượng ra một khung truyện như sau.
Đêm khuya lạnh lẽo, chỉ vì nghe lời báo mộng của một thiên thần trong giấc mộng, mà giữa đêm Joseph vội vàng đưa vợ và đứa con mới sinh làm một cuộc hành trình trên sa mạc dài hơn 300 cây số (200 miles) từ Bethlehem tới Ai Cập. Ở đó ít lâu, rồi lại nghe lời thiên sứ trong một giấc mộng, bảo quay về vì Herod đã chết, lại mang vợ con quay trở về, không phải về Bethlehem mà về Nazareth, Israel, để phù hợp với một lời tiên tri trong Cựu Ước (And he came and dwelt in a city called Nazareth: that it might be fulfilled which was spoken by the prophets, He shall be called a Nazarene.). Trong thời gian ở Ai Cập, hiển nhiên Joseph và Mary, không hề hay biết về chuyện Herod sai người giết mọi đứa trẻ dưới 2 tuổi ở Bethlehem và vùng lân cận. Thời đó chưa có điện thoại hay Internet, nên tin tức loan truyền, nếu được loan truyền, đi rất chậm. Khi bồng con trở về tới Nazareth, bà mẹ của Mary mừng rỡ hỏi: “Bấy lâu nay con và cháu ở đâu, ta tưởng cháu ta đã chết trong cuộc tàn sát con thơ của Herod rồi.” Mary rất đỗi ngạc nhiên: “Cuộc tàn sát nào?”. Bà mẹ trả lời: “Con không biết sao, Herod muốn giết Dê-su nhưng không biết ở đâu nên đã ra lệnh tàn sát mọi đứa trẻ dưới hai tuổi ở Bethlehem và vùng lân cận, tin rằng trong đó có Dê-su ”. Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh lính tráng của Herod vào từng nhà ở Bethlehem và vùng lân cận, thấy đứa trẻ nào dưới 2 tuổi, giật nó ra khỏi vòng tay của bà mẹ, và giết nó ngay trước mặt mẹ nó.
Sự sinh ra của Dê-su đã phủ một màn tang tóc đầy máu trên Bethlehem và vùng lân cận. Vậy thì ngày “giáng sinh” của Dê-su nên đổi thành ngày “giáng họa” cho đúng với những gì viết trong Tân Ước. Người nào không đồng ý với ý kiến này xin mời lên tiếng.
Đọc Tân Ước về chuyện vì Dê-su sinh ra ra mà bao trẻ thơ vô tội bị giết, ai mà không thấy mủi lòng. Huống chi là khi đó cô Mary phải đối diện trực tiếp với sự thật lịch sử này. Do đó, hai dòng nước mắt đỏ như máu tràn ra má Mary, cô ta khi đó mới chỉ độ 15, 16 tuổi, trong sự cùng cực đau khổ, cô ta than trách: “Ôi, Gót ơi! Gót ơi! Sao người lại chọn tôi? Sao người lại chọn tôi để tôi sinh ra thằng con này, vì nó mà bao nhiêu trẻ thơ vô tội bị giết. Tội này tôi gánh làm sao đây, hả Gót?” “Nếu tôi biết thế này thì tôi đã từ chối, không bao giờ dám “Xin Vâng” để cho người làm tôi mang thai đâu.”
Đức Mẹ, cũng như hầu hết các bà mẹ trên thế gian, đều giầu tình cảm và dễ mủi lòng trước những sự đau khổ của con cái cũng như của tha nhân. Phản ứng thường là hai giòng nước mắt chảy ra, nhưng rất ít khi khóc ra máu hoặc ra dầu.
Nếu chúng ta tin tất cả những gì viết trong cuốn Tân Ước thì chúng ta sẽ thấy là Đức Mẹ không thể không khóc, khóc vì đã sinh ra Dê-su , và không chỉ riêng bà Mary, mà bất cứ bà mẹ nào trên thế gian mà sinh ra một người con như Dê-su mà vì nó mà gây ra bao thảm họa trên thế gian thì cũng phải khóc.. Cho nên, những giọt nước mắt hay máu từ mắt Mẹ chảy ra thực ra chỉ là những giọt nước mắt, hay máu, của một bà mẹ đau khổ cùng cực, vì đã sinh ra một đứa con như Dê-su , và như lời tiên tri trong Cựu Ước, cô bé Mary đã bị “một lưỡi gươm đâm sâu vào tâm hồn (tim)” chỉ vì được Gót chọn làm mẹ của Dê-su .
Bà mẹ nào trên thế gian sinh ra con cái cũng muốn con cái của mình hiếu thảo, giỏi giang, làm lành tránh ác (như lời giáo hội Ca-tô dạy), và sẽ đau khổ, thất vọng, nếu con cái không như mình mong muốn. Do đó, có nhiều trường hợp khác trong Tân Ước khiến cho Đức Mẹ không thể không khóc
Các tín đồ Ca-Tô thường nhắc đến câu Dê-su dạy "Phải hiếu kính với cha mẹ.." (Matthew 19: 19: Honor your father and your mother..) làm như đó là đạo lý đặc thù của Ki Tô Giáo, chỉ mình Ki Tô Giáo có mà thôi. Nhưng vì không đọc Tân Ước nên họ không biết rằng, trong thực tế, Dê-su đã hiếu kính với cha mẹ như thế nào. Qua những chuyện viết trong Tân Ước, chúng ta không thể nghĩ khác hơn là: những thái độ và hành động hỗn hào bất kính với cha mẹ, vô tình vô nghĩa với gia đình, là những thuộc tính đặc thù của Chúa Ki-Tô.
Thật vậy, đọc Tân Ước chúng ta thấy Dê-su không coi gia đình ra gì, có lẽ vì ông ta có mặc cảm với cái thân thế bất minh, là đứa con hoang của mẹ mình. Trong nhiều trường hợp ông ta còn để lộ thái độ thù ghét gia đình. Trước hết, chúng ta hãy xem cách đối xử của ông ta với chính mẹ mình.
Trong các Phúc Âm, chúng ta không bao giờ thấy Dê-su gọi mẹ mình, bà Mary, là "Mẹ". Trong bản Thánh Kinh của Vua James (King James Version), cuốn Thánh Kinh được chấp nhận rộng rãi và dùng trong nhiều thế kỷ cho đến tận ngày nay, từ mà Dê-su dùng để gọi bà Maria là "Người đàn bà kia" (Woman), một cách gọi xách mé hỗn xược. Thật là tội nghiệp cho bà Mary. Đây không phải là điều khó hiểu. Vì phân tích những lời hỗn hào của Dê-su đối với mẹ và gia đình trong nhiều trường hợp được viết trong Tân Ước, một số học giả đã cho rằng, đúng là Dê-su có cái mặc cảm của một đứa con hoang, bị thiên hạ khinh khi đàm tiếu cho nên hận gia đình, hận mẹ, hận thân phận nghèo khó của mình v..v.. kết thành những thái độ và lời nói với mẹ và gia đình như vậy. Cho nên, ông ta tự cho mình là con của Gót, có một nhiệm vụ cao quý cứu dân Do Thái, để xóa bỏ thân phận thực của mình. Nhưng, chính gia đình của Dê-su gồm có cha, mẹ (Joseph và Mary) và các em trai, em gái của Dê-su cũng không tin Dê-su là đấng cứu tinh của dân tộc Do Thái, đôi khi còn cho ông ta là không có đầu óc bình thường nếu không muốn nói là điên (out of his mind), cho nên thái độ của Dê-su đối với gia đình rất là hỗn hào, xấc láo.
Nhiều người ngày nay cho rằng nên bỏ Cựu Ước mà chỉ để ý đến Tân Ước. Nhưng họ không biết rằng Tân Ước còn tệ hơn là Cựu Ước. Chúng ta chắc ai cũng đã biết chuyện sau đây được kể trong Tân Ước: Nhân ngày lễ vượt qua, theo thường lệ, vợ chồng Joseph, Mary và Dê-su , khi đó mới 12 tuổi, cùng đến Jerusalem. Sau ngày lễ thì hai vợ chồng Joseph thấy biến mất ông con. Tưởng rằng ông con đã đi cùng trong đoàn lữ hành đi trở về nhà nên ông bà cũng đi trở về nhà. Nhưng đi suốt cả ngày cũng không thấy Dê-su đâu, lúc bấy giờ mới hỏi thăm và đi tìm Giê-su. Hai ông bà quay trở lại Jerusalem để kiếm Dê-su và ba ngày sau thì thấy Dê-su đang ngồi đối đáp với mấy thầy thông thái trong một đền thờ. Sau đây là những lời qua lại giữa bà Mary và ông con Dê-su , Lu-Ca (Luke) 2 : 48 -50:
Khi cha mẹ thấy Ngài, thì lấy làm lạ, và mẹ Dê-su nói với con rằng: Này con, sao con làm cho hai ta thế này? Này, cha và mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con. Ngài trả lời: Các người kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi hay sao? Nhưng hai người không hiểu lời ngài nói chi hết.
Quý vị có thấy một đứa bé 12 tuổi nào hỗn hào với cha mẹ như vậy chưa, trừ phi nó là một nghiệp chướng của một gia đình vô phúc. Trước hết nó ở lại Jerusalem một mình mà không hề xin phép cha mẹ. Sau đó khi cha mẹ tìm được nó, trách nó, thì nó lại sẵng giọng cùng cha mẹ và hỏi họ kiếm nó làm chi? Nhưng câu chót “Nhưng hai người không hiểu lời ngài nói chi hết” đã chứng minh rằng cả Joseph và Mary đều biết, nhất là Mary, người biết rõ hơn ai hết ai là cha thực của Dê-su , cho nên mới không hiểu Dê-su nói gì khi Dê-su nói là đang lo việc của Cha, nghĩa là việc của Chúa Cha, alias Thần Gia-vê của Do Thái, mà Dê-su có ảo tưởng mình là con của ông Thần này..
Chuyện cha mẹ lo lắng cho con là chuyện tự nhiên, nhưng chuyện “Chúa tôi” đối đáp với cha mẹ như vậy thì quả thật là đặc biệt, hiếm có trên thế gian, và ít ra là không hợp với nền luân lý của Việt Nam.
Chúng ta cũng biết, trong Tân Ước, ngoài trường hợp hỗn hào với bố mẹ khi Dê-su 12 tuổi ở trên, chỉ có hai trường hợp khác Giê-su trực tiếp nói cùng bà Maria, và cả trong hai trường hợp đó Dê-su đều gọi mẹ là "Người đàn bà kia". Trường hợp thứ nhất, John 2: 1-4 kể rằng: Trong một tiệc cưới có cả hai mẹ con Mary và Dê-su dự, khi rượu hết bà Mary đến nói với Dê-su là "Họ đã hết rượu rồi". Dê-su trả lời bà như sau: "Người đàn bà kia! Sự quan tâm của bà thì có liên can gì tới Ta? Giờ của Ta còn chưa tới" (Woman, what does your concern have to do with Me? My hour has not yet come). Giờ gì? Đọc tiếp Thánh Kinh chúng ta mới thấy rằng đó là giờ Dê-su trổ tài làm phép lạ, biến 6 vại nước thành rượu. Kinh Thánh tiếng Việt của American Bible Societies xuất bản năm 1998 dịch đoạn trên như sau: "Hỡi đàn bà kia, Ta với ngươi có sự gì chăng? Giờ Ta chưa đến". [Gần đây, con chiên Việt Nam dịch láo “woman” là “thưa mẹ” để đánh bóng Dê-su ] Đó là câu nói "hiếu kính với cha mẹ" của "Chúa tôi" của những tín đồ Ca-Tô Việt Nam. Vậy họ còn đợi gì mà không noi gương Chúa, đối xử với cha mẹ như Chúa?
Trường hợp thứ hai là khi Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá, đang hấp hối sắp chết. John 19: 26 kể rằng: Chúa Dê-su thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người, thì nói cùng mẹ rằng: "Người đàn bà kia, đó là con của ngươi.." (When Jesus therefore saw His mother, and the disciple whom he loved standing by, He said to His mother: "Woman, behold your son!")
Chúng ta nên để ý là Dê-su đã dùng cùng danh từ "Người đàn bà kia" (Woman) để gọi một người đàn bà từ xứ Canaan đến xin chữa bệnh cho con gái mà mới đầu Dê-su không chịu chữa mà còn gọi người ta là chó vì không phải là dân Do Thái, và một người đàn bà khác can tội tà dâm (John 8:10, Matthew 15:28). Ngoài ra, Matthew 12:48 cũng còn kể: Trong khi Dê-su đang đứng giữa đám đông, Bà Mary và các em trai của Dê-su đến và nhờ người nhắn với Dê-su là Mẹ và các em đang ở phía ngoài muốn gặp Dê-su thì Dê-su sẵng giọng nói: "Ai là mẹ Ta? Ai là các em Ta?" (Who is my mother? and who are my brothers?).
Bị đứa con hỗn hào đối xử như vậy, bà mẹ nào không buồn, nhưng vì thương con, nên Đức Mẹ chỉ biết khóc, khóc vì tủi thân, khóc vì bị con ma thánh xâm phạm tiết hạnh, gọi đó là ân sủng, để sinh ra đứa con như Dê-su . Do đó Đức Mẹ không thể không khóc.
Một chuyện khác trong Tân Ước, Matthew 8: 28 - 34, có thể cho chúng ta thấy rõ tâm địa ác độc của Dê-su , được tóm tắt như sau:
Có hai người bị quỷ ám gặp Dê-su và quỷ trong hai người đó van nài Dê-su đuổi chúng ra và cho nhập vào một bày heo. Dê-su phán "đi ra", hai con quỷ liền nhập vào bầy heo và cả bầy heo (độ 2000 con, theo Mark 5: 13)cùng quỷ rông tuốt xuống sông chết đuối hết. Trẻ con chăn heo chạy về làng kể chuyện lại cho dân làng nghe, cả làng kéo ra khỏi làng gặp Dê-su và...van nài (có nghĩa là đuổi) Ngài hãy đi ra khỏi vùng đất của họ.
Chúng ta hãy tự hỏi, 2000 con heo có tội tình gì mà Chúa Dê-su "lòng lành vô cùng" của các tín đồ Ki Tô Giáo lại phù phép làm cho 2 con quỷ nhập vào cả đàn, rồi bắt chúng nhào xuống sông chết đuối hết? Như vậy có phải là Dê-su là người không có lòng nhân, vô cớ tự nhiên đang tâm giết cả một đàn heo vô tội một cách tàn nhẫn. Mà đàn heo cũng lại là những sản phẩm của chính Chúa Cha “sáng tạo” ra, vì theo niềm tin Ki Tô thì mọi thứ trên đời này đều là do Chúa Cha tạo ra cả. Bởi vậy dân làng mới coi Dê-su như là một tên phù thủy, một kẻ đáng chê trách, đã vô cớ hủy đi một nguồn lợi của dân làng, làm cho họ tự nhiên mất đi cả một đàn heo tới 2000 con, cho nên họ kéo ra ngoài làng, chặn đuổi Dê-su đi nơi khác, không dám để cho Dê-su vào làng.
Tân Ước có đầy những chuyện chứng tỏ nhân cách và đạo đức thấp kém của Dê-su như trên, nhưng trên khắp thế giới, các tín đồ vẫn được dạy là "Chúa toàn hảo", "Tình Yêu của Chúa" bao trùm thế gian v..v.. nên phải "Kính Chúa" và hãy hãnh diện là "tôi tớ hầu hạ Chúa", "thờ phụng Chúa". Nhưng Giám Mục John Shelby Spong thì lại nghĩ khác, vì sự lương thiện trí thức không cho phép ông ta tin nhảm nhí. Do đó, ông đã viết:
Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một Chúa phải giết cả một bày heo để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không? Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?...
Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. (7)
Một cô bé ngây thơ, hiền như Mary, sinh ra một đứa con ác tâm, tàn nhẫn như vậy, làm sao mà không buồn khổ. Nhưng biết làm thế nào, dù sao nó cũng là con mình, cho nên chỉ có thể khóc, khóc cho vơi nỗi buồn. Do đó, Đức Mẹ không thể không khóc. Đức Mẹ đã khóc và khóc rất nhiều vì có một đứa con như vậy khi Đức Mẹ còn sống. Nhưng tại sao ngày nay, qua 20 thế kỷ rồi mà Đức Mẹ vẫn còn khóc, và khóc ở khắp mọi nơi. Điều này thật là dễ hiểu.
Bà là “Mẹ của Gót”, hàm ý Dê-su là Gót, cho nên nay ở trên trời, bà phải biết người đời thực sự nghĩ gì về con của bà và đánh giá con của bà ra sao. Làm sao mà Đức Mẹ không khóc cho được khi thấy Giám Mục John Shelby Spong nhận định về bản chất “Gót” của con bà, Dê-su , như sau:
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Dê-su ở Nazareth như là một con người đầu óc hẹp hòi nhỏ nhen, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
(John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).
Và Jim Walker cũng viết trên http://www.nobeliefs.com/jesus.htm :
Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Dê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.
[Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]
Đức Mẹ khóc vì thương xót cho gần 1/3 nhân loại mù mờ ngưỡng mộ và tôn sùng con của Đức Mẹ mà không hề biết là đứa con đó đầu óc hẹp hòi, đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả. Thật ra thì nếu chúng ta đọc kỹ Tân Ước thì chúng ta có thể thêm vài cá tính của Dê-su như: hỗn hào, huênh hoang khoác lác, và nói láo. Xin đọc bài: “ Dê-su Nói Láo: Ông Ta Chỉ Là Con Người” trên http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5610 hoặc đọc cuốn “Jesus Lied: He Was Only Human” của CJ Werleman.
Nhưng tại sao một người được các tín đồ Ki-tô Giáo tin và ca tụng là Chúa lại có những cá tính thấp kém như vậy. Bởi vì họ có chung một loại “gen” đặc biệt, nên rất dễ tin, tin vào những điều rao giảng láo, sai sự thật về Dê-su , chứ họ không hề trực tiếp đọc Tân ước với một đầu óc suy lý, phân tích thông thường. Họ không hề biết Dê-su cũng chỉ là một người Do Thái bình thường như mọi người khác, với một sự hiểu biết và đức tính không có gì đặc biệt, nếu không muốn nói là còn kém rất nhiều người trên thế gian.
Nếu họ đọc kỹ Tân ước thì họ sẽ thấy đúng như học giả Russell Shorto, sau khi duyệt các công cuộc nghiên cứu về Dê-su trong hai thế kỷ nay, đã viết trong cuốn “Sự Thật Trong Phúc Âm” (Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997) như sau, trang 14:
Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. (8)
Vì chỉ là một người thường và chắc chắn là ít học trong thời cách đây 2000 năm ở Do Thái mà hầu hết mọi người đều thất học, cho nên Dê-su không có mấy hiểu biết, và vì thân thế bất minh của mình nên Dê-su giận đời, giận gia đình cho nên mới phát sinh những cá tính như vậy.
Thật vậy, Jim Walker viết trên http://www.nobeliefs.com/jesus.htm :
Học vấn và kiến thức về thế giới của Dê-su thì còn kém xa khi so sánh với trình độ của một học sinh trung bình tốt nghiệp Trung Học ngày nay. Không có một tác phẩm nào của Dê-su viết ra hiện hữu. Ông ta không có một kiến thức độc đáo mới mẻ nào, không gì mới về đạo đức hay những giải pháp cho thế giới. Điều độc đáo nhất của ông ta là khai triển ý tưởng khủng khiếp về sự đầy đọa xuống hỏa ngục. Ông ta chỉ có một sự hiểu biết sơ đẳng về thế giới của ông ta và chắc chắn là không có một kiến thức nào về khoa học. Nói ngắn gọn, không có gì về Dê-su có vẻ là kỳ diệu và Thánh Kinh không cho ra bất cứ một lý do nào để đặc biệt kính trọng ông ta. (9)
Đức Mẹ là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace) nhưng con của Mẹ lại không chủ trương hòa bình như được viết trong Tân Ước, vậy làm sao mà Đức Mẹ không thể không khóc. Thật vậy:
Tân Ước, Matthew 10: 34-36, đã viết rõ, Dê-su khẳng định:
Đừng tưởng rằng Ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì Ta xuống đây để làm cho con chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn.
Và Lưu-Ca 12: 51-53 cũng xác định lại khẳng định của Dê-su như sau:
Đừng tưởng Ta đến để đem hòa bình cho thế giới. Không, Ta đến để chia loài người làm hai. Từ đây, một nhà có năm người sẽ chia rẽ chống đối nhau: hai chống ba, và ba chống hai. Mâu thuẫn sẽ diễn ra giữa con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng.
Cuối cùng, Giáo hội Ca-tô dạy rằng Đức Mẹ là “Mẹ của Gót” (Mother of God), là “Nữ Vương Hòa Bình” (Queen of Peace) và tín đồ Việt Nam còn ban cho bà danh hiệu “Đức Mẹ Sầu Bi”. Bi là Cứu Khổ. Cho nên Mẹ không thê không biết đến con người đã nhân danh Mẹ để làm nên những chuyện gì.
Mẹ phải biết người ta đã nhân danh con bà để làm đủ mọi tội ác, giết hại vô số người vô tội, như lịch sử Ca-tô giáo đã chứng tỏ, và Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới về 7 núi tội ác của Ca-tô giáo. Thấy ảnh hưởng của con mình trên giáo hội do con mình thiết lập, Ca-tô Rô-ma Giáo, đã gây ra bao chiến tranh tàn khốc, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, cả trăm triệu người vô tội gồm già trẻ lớn bé bị giết vì con của Mẹ, vậy làm sao mà Đức Mẹ không khóc cho được.
Chắc chắn Đức Mẹ phải biết những sự kiện sau đây, qua vài trích dẫn trong bài viết của một nhà tư tưởng tự do nổi danh nhất nước Mỹ, Robert G. Ingersoll:
Ki Tô Giáo không thể sống hòa bình với bất cứ tín ngưỡng nào khác. Nếu tôn giáo này đúng thì chỉ có một đấng cứu thế, một cuốn sách do Gót của Ki-Tô Giáo (Christian god) truyền cảm, và chỉ là một con đường cỏ nhỏ hẹp dẫn tới thiên đường.
Tại sao Dê-su không trở lại đền thờ để chấm dứt những cuộc tranh luận cũ kỹ? Tại sao Giê-su không đối diện với những người lính La Mã đã nhận tiền để thề rằng xác ông ta đã bị các đồng bạn đánh cắp? Tại sao ông ta không chiến thắng đi vào thành Jerusalem lần thứ hai? Tại sao ông ta không nói trước quần chúng: "Đây là những vết thương ở chân, tay, và cạnh sườn ta. Ta là người các ngươi muốn giết, nhưng thần chết chỉ là nô lệ của ta."? Thật là đơn giản, sự sống lại của Dê-su chỉ là một huyền thoại. Tôi không tin và không thể nào tin cái phép lạ về sự sống lại.
Chúng ta không biết gì chắc chắn về Dê-su . Chúng ta không biết gì về thời ông ta còn là đứa con nít, thời niên thiếu của ông ta, và chúng ta cũng không chắc là một người như vậy đã hiện hữu.
Rất có thể có một người như vậy tên là Dê-su. Ông ta đã có thể sống ở Jerusalem. Ông ta có thể đã bị đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập, nhưng những điều như ông ta là con của Gót, chết rồi sống lại và thân thể bay lên thiên đường thì, trong bản chất của mọi vật, chưa bao giờ và không bao giờ có thể chứng minh được.
Trong nhiều thế kỷ, cái tên nhà quê đặc ở Palestine này (Dê-su) đã được người ta thờ phụng như là Gót. Hàng triệu người đã hiến thân để phục vụ hắn. Của cải thế gian được đổ vào những đền thờ hắn. Tên hắn đã mang sự an ủi đến cho những kẻ bệnh hoạn và sắp chết. Tên hắn đã mang sự can đảm đến cho những kẻ cuồng tín chết vì đạo.. Những kẻ sống ngoài lề xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, thất bại, cảm thấy rằng hắn biết đến và thương hại những sự đau khổ của họ.
Đúng là có tất cả những điều trên, và nếu đó là tất cả thì đẹp đẽ biết bao, cảm động biết bao, và vinh quang biết bao. Nhưng đó không phải là tất cả. Nó còn một mặt khác.
Nhân danh hắn hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong Kinh hắn giảng chúng ta thấy cái tín lý về sự đau đớn vĩnh viễn (đọa hỏa ngục. TCN), và những lời của hắn đã gia thêm sự kinh khủng vô tận vào sự chết. Kinh hắn giảng chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra." Nếu những người viết Tân Ước được coi như không phải là do Gót gây cho cảm hứng, nếu Dê-su chỉ được coi như là một người thường, nếu những điều tốt đẹp được thu nhận và vứt bỏ đi những điều vô nghĩa, không thể xảy ra, sự trả thù, thì nhân loại sẽ tránh được chiến tranh, những sự tra tấn, máy chém, ngục tối, sự hấp hối và nước mắt, những tội ác và đau khổ trong một ngàn năm.
Trước hết Dê-su là một con người - không gì hơn một con người. Mary là mẹ ông ta. Joseph là cha ông ta. Gia phả của cha ông ta, Joseph, được viết để chứng tỏ rằng thuộc dòng dõi David.
Rồi người ta cho rằng Dê-su là con của Gót, rằng mẹ ông ta là một nữ trinh và tiếp tục đồng trinh cho đến khi chết. [và cho đến ngày nay. TCN]
Người ta cho rằng Dê-su sống lại và thân thể bay lên trời.
Phải mất rất nhiều năm những điều vô nghĩa này mới cấy được vào đầu óc con người.
Nếu thực sự ông ta thăng thiên, tại sao ông ta không làm việc này trước công chúng, trước những người đã bạo hành ông? Tại sao cái phép lạ vĩ đại nhất trong các phép lạ này lại phải thực hiện trong bí mật, trong một xó xỉnh?...
Nhưng sau cùng, khi đối diện thần chết, Dê-su mới nhận ra là mình sai lầm và than khóc: "Gót ơi! Gót ơi! Sao Ngài lại ruồng bỏ tôi?"
(xem tiếp ở dưới)
Tại sao chúng ta phải đặt Dê-su lên tột đỉnh của nhân loại? Ông ta có từ ái hơn, dễ tha thứ hơn, hay hi sinh bản thân hơn đức Phật hay không? Ông ta có thông thái hơn, đối diện với cái chết một cách bình tĩnh toàn hảo hơn là Socrates không? Ông ta có kiên nhẫn, nhân từ hơn là Epictetus không?
Ông ta có là một triết gia lớn hơn, một tư tưởng gia sâu sắc hơn là Epicurus hay không? Về phương diện nào ông ta đứng trên Zoroaster? Ông ta có hòa ái hơn Lão Tử hay phổ quát hơn Khổng tử không?
Những ý tưởng về nhân quyền và bổn phận con người của ông có cao hơn của Zeno không? Ông ta có đưa ra những chân lý cao hơn của Cicero không? Đầu óc ông ta có tinh tế hơn Spinoza không?
Đầu óc ông ta có sánh bằng đầu óc của Kepler và Newton không? Trong sự thông minh, trong cách diễn đạt, trong sự sâu rộng của tư tưởng, trong sự phong phú của cách minh họa, trong khả năng so sánh, trong sự hiểu biết về tâm trí, sự đam mê và sợ hãi của con người, ông ta có hơn được Shakespeare không?
Nếu Dê-su thực sự là Gót, ông ta phải biết mọi việc trong tương lai. Ông ta phải thấy rõ lịch sử sẽ xảy ra. Ông ta phải biết người ta sẽ diễn giải những lời ông nói như thế nào. Ông ta phải biết những tội ác nào, những sự khủng khiếp nào, những sự ô nhục nào mà người ta sẽ phạm phải nhân danh ông. Ông ta phải biết đến những ngọn lửa bạo hành bốc lên xung quanh chân tay những kẻ bị thiêu sống vì không có cùng niềm tin như những tín đồ Ki Tô Giáo. Ông ta phải biết đến hàng ngàn người, đàn ông cũng như đàn bà, đau đớn mòn mỏi trong ngục tù tối tăm. Ông ta phải biết cái giáo hội của ông ta sẽ phát minh ra những dụng cụ tra tấn; những tín đồ của ông sẽ dùng đến roi vọt và bó củi, xiềng xích và giá căng (banh) người. Ông ta phải thấy chân trời tương lai sáng rực với những ngọn lửa thiêu sống con người trong những cuộc lễ auto da fe. Ông ta phải biết những tín lý, giáo điều sẽ mọc lên như nấm độc trong mọi cuốn sách bổn của giáo hội. Ông ta phải thấy những phe phái Ki Tô ngu đần gây chiến với nhau. Ông ta phải thấy hàng ngàn con người, theo lệnh của các linh mục, xây những nhà tù cho đồng loại. Ông ta phải thấy hàng ngàn máy chém đẫm máu của những người tốt nhất và dũng cảm nhất. Ông ta phải thấy những tín đồ của ông ta sử dụng những dụng cụ tra tấn gây đau đớn cho con người. Ông ta phải biết những diễn giảng về lời ông nói sẽ được viết bằng gươm giáo, và đọc trong ánh sáng của những bó củi thiêu sống người. Ông ta phải biết những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo sẽ được thiết lập vì theo những lời giảng dạy của ông.
Ông ta phải thấy những sự ngụy tạo và suy diễn lệch lạc mà những kẻ đạo đức giả viết ra và nói cho quần chúng. Ông ta phải thấy những cuộc chiến tranh sẽ được gây ra, và ông ta phải biết là trên những cánh đồng chết chóc đó, những ngục tù tăm tối đó, những giá căng người đó, những cuộc thiêu sống người đó, những cuộc hành quyết đó, trong cả ngàn năm, ngọn cờ của cây thập giá đẫm máu đã tung bay.
Ông ta phải biết người ta sẽ khoác áo thánh thiện và đội vương miện cho sự đạo đức giả - sự độc ác và nhẹ dạ cả tin sẽ ngự trị thế giới; phải biết sự tự do của con người sẽ mai một trên thế giới (dưới quyền lực của giáo hội); phải biết rằng nhân danh ông các giáo hoàng và vua chúa sẽ nô lệ hóa hồn xác con người; phải biết rằng họ sẽ bạo hành và tiêu diệt mọi nhà khảo cứu, nhà tư tưởng và nhà phát minh; phải biết là giáo hội của ông ta sẽ dập tắt ánh sáng thánh thiện của lý trí và giữ thế giới trong tăm tối.
Ông ta phải thấy những người theo ông sẽ chọc mù mắt con người, róc thịt, cắt lưỡi họ, tìm những chỗ nào đau đớn nhất trên thân thể con người để mà hành hạ.
Tuy nhiên ông ta đã chết đi với bờ môi khép kín.
Tại sao ông ta không nói lên, không dạy các tông đồ và xuyên qua họ, dạy thế giới: "Các ngươi không được thiêu sống, tù đầy và tra tấn con người nhân danh ta. Các ngươi không được bạo hành đồng loại.”
Tại sao ông ta đi đến cõi chết một cách ngu đần, để lại thế giới cho sự đau khổ và nghi ngờ?
Tôi sẽ nói cho các người biết. Vì Dê-su chỉ là một người thường, ông ta chẳng biết gì đến những điều trên. (10)
Rồi Đức Mẹ lại thấy hàng ngàn người tiếm danh là “Ki-tô thứ hai” (Alter Christus), alias Linh mục, đi cưỡng dâm các chị em nữ tu của mình và các trẻ em, và được người tiếm danh là “đại diện của Dê-su trên trần” (Vicar of Christ), alias Giáo hoàng, bao che, làm nhục danh con của Mẹ, làm sao mà Mẹ không thể không khóc? Có phải là tất cả những giải thích ở trên về tại sao Đức Mẹ khóc là hợp lý nhất hay không, thay vì những giải thích thuộc loại đoán mò, hoặc tin nhảm tin nhí vô căn cứ. Ai không đồng ý xin mời lên tiếng.
Điều hiển nhiên là những người tin vào một cuộc sống đời đời sau khi chết ở trên thiên đường cùng với Dê-su lại luôn luôn bám vào cuộc sống đang có, chẳng có ai muốn chết sớm hay tự tử để lên thiên đường.Những gì các nhà truyền đạo nói về thiên đường chỉ là đoán mò, vì đã có ai từ thiên đường trở về để cho chúng ta biết cái thiên đường đó là như thế nào. Cho nên trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, và trước sự khám phá của khoa học về vũ trụ, Giáo hoàng John Paul II đã phải thú nhận là chẳng làm gì có thiên đường trên các tầng mây.
Gần đây có anh Mục sư Tin Lành không chân không tay Nick Vujicic được Nhà Nước cho phép đến Việt Nam giảng đạo láo: « Sự cầu nguyện là một điều rất lớn trong cuộc đời của anh và khi cầu nguyện thì Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta. Và hãy giữ vững niềm tin. » và: « Các bạn có biết tại sao tôi yêu Đức Chúa Trời không ? Bởi vì tôi biết rằng thiên đàng là có thật. Ngày nào mà chúng ta được lên thiên đàng, chúng ta sẽ có đủ chân, đủ tay. »
Những người có đầu óc, ai mà tin được những điều này. Nhưng những hứa hẹn hoang tưởng lừa dối này đã được Ki Tô Giáo dùng trong 2000 năm nay, và cũng có tác dụng an ủi những người ít đầu óc lâm vào cảnh khó khăn về vật chất cũng như tinh thần. “Khi cầu nguyện thì Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta.” Vậy thì sự yêu thương của Đức Chúa Trời đã giúp được gì cho những người cầu nguyện, có giúp cho Nick Vujicic mọc lại chân tay ngay trong đời sống này hay không? “Hãy giữ vững niềm tin.” Vậy Nick có vững tin lời Chúa Trời của ông ta hứa: “Và mọi điều mà các người xin trong cầu nguyện, tin, thì các người sẽ được” " (KJV, Matthew 21: 22: “And all things, whatever you ask in prayer, believing, you will receive.") Nick chắc chắn là giữ vững niềm tin, vậy sao Nick không cầu nguyện để Đức Chúa Trời làm cho tay chân Nick mọc lại ngay trong đời sống này. Không được có phải không?
Nick Vujicic lúc bé và bây giờ
Điều này chứng tỏ cái gì. Nó chứng tỏ là Đức Chúa Trời cho những người tin ông ta một cái bánh vẽ, và những người như Nick sẵn sàng nhắm mắt nuốt cái bánh vẽ đó mà không cần suy nghĩ. Rõ ràng những lời truyền đạo của Nick Vujicic chỉ là lừa dối, bịp bợm, vậy mà vẫn có người tin. Vì vậy nên Tin Lành vẫn sống và vẫn kiếm được nhiều tiền. Có thể Nhà Nước đã cố ý để cho Nick đến nói láo, để cho người dân thấy rõ thủ đoạn lừa bịp của những nhà truyền giáo Tin Lành. Có thể đây là một cách mở mang dân trí, nhưng trong xã hội Việt Nam vẫn còn nhiều người tin vào những điều truyền đạo nhảm nhí như của Nick Vujicic. Cho nên, Nhà Nước nên giáo dục người dân trước, rồi khi họ đã có một sự hiểu biết căn bản, mới để cho người dân nghe những lời truyền đạo láo lếu của Tin Lành như trong “Tuyên Ngôn Phục Linh” hay như của NickVujicic. Chưa đủ hiểu biết thì không nên nghe những lời mê hoặc lừa dối này.
Vấn đề là, những lời hứa hẹn hoang đường lừa dối đó, những cái bánh vẽ viển vông trên trời, thì chẳng có ích gì cho đời sống của con người hiện tại. Chúng ta chỉ có một đời sống, và trong đời sống này, chúng ta mong có đủ chân tay để đi đứng làm việc chứ không mong là cứ an phận què quặt với hi vọng là trong đời sau chân tay mọc lại ở trên một thiên đường (mù), ở nơi đó không còn cần đến chân tay. Trên thế gian này đã có bao trường hợp người bị cưa chân, cưa tay, vì chiến tranh, hay vì tai nạn, và có rất nhiều người, với ý chí cá nhân đã sống một cuộc đời bình thường, đâu có phải vì tin Chúa như Nick Vujicic. Vấn đề chính là chẳng có ai muốn lên thiên đường ngay khi còn sống, Nick Vujicic cũng vậy, vẫn bám vào cuộc sống què quặt, đâu có muốn lên thiên đường ngay để cho Chúa làm cho chân tay mọc lại đầy đủ. Cho nên, ngay trong đời sống này, trong cộng đồng thế giới, chúng ta ước mong những gì. Có vài điều chính mà hầu như ai cũng mong muốn. Đó là:
- Thế giới không còn cảnh nghèo đói để cho mọi người đều có đủ cơm no áo mặc.
- Thế giới sống trong hòa bình, không có chiến tranh để khỏi những cảnh chết chóc của người dân vô tội.
- Gia đình hòa thuận không xảy ra chuyện gia đình tan nát.
- Không có sự đàn áp, cưỡng bách, công lý cho mọi người.
- Không có thiên tai, bão lụt, sóng thần, động đất v…v… để cho con người sống an bình không phải lo sợ.
- Xã hội không có tội ác, tai nạn, bệnh tật, cụt chân, cụt tay v…v…
- Thế giới không còn sự ngu dốt, cuồng tín, từ đó gây tác hại cho người khác
Giáo hội Ca-tô dạy tín đồ Dê-su là đấng Cứu Thế, một vai trò mà Giám mục John Shelby Spong đòi phải dẹp bỏ. [Xin đọc bài: Dê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ của Giám mục Spong trên: http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php] Và Tân Ước cũng viết Dê-su có nhiều danh hiệu như “Bánh của sự sống” (John 6: 35, 51); “Người giải thoát” [Roman 11:26]; “Chúa của hòa bình” [II Thessalonians 3: 16]; “Ông hoàng của hòa bình” (Isaiah 9:6); “Đấng phán xét công minh” (II Thimothy 4;8). Nhưng thử hỏi, trong 2000 năm nay, Chúa đã làm gì cho thế giới để đáp ứng những ước muốn thông thường của con người như trên. Nghèo đói, chiến tranh, gia đình tan nát, bất công, thiên tai, tai nạn, bệnh tật, sự ngu dốt và cuồng tín v…v.. vẫn tràn ngập trên thế giới, cái thế giới do chính Chúa sáng tạo ra. Vậy làm sao mà Đức Mẹ không khóc cho được. Nhưng Mẹ thì chỉ biết khóc, còn Con thì biệt tăm biệt tích đã 2000 năm. Sự bất lực thần thánh của hai mẹ con Dê-su không có gì rõ ràng hơn nữa.
Vậy thì tin vào hai mẹ con Dê-su để làm gì? Vì cái bánh vẽ “cứu rỗi” trên trời của ông Con hay sao? Hay vì vai trò “Đồng công cứu chuộc” của Mẹ? Điều hiển nhiên là, chẳng biết đời sau sẽ ra sao, nhưng ngay trong đời sống này, những người tin Dê-su phải gánh chịu những lời cảnh báo của Dê-su như sau, ông ta biết rõ như vậy dựa trên kinh nghiệm bản thân:
Matthew 24:9: "Tất cả các dân tộc đều ghét các ngươi vì các ngươi theo ta." (And you will be hated by all nations for my Name's sake.) [Vậy thì các tín đồ Ki-tô đừng trách khi bị người đời khinh khi, ghét bỏ. Chúa đã biết như vậy, vì theo Chúa thì chắc chắn là sẽ bị người đời ghét.]
Luke 6: 22 "Phúc cho các ngươi khi vì Con của Người (Dê-su) mà bị người ta ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.” (Blesses are you when men hate you, and then they exclude you, and revile you, and cast out your name as evil, for the Son of Man’s sake) [Vậy khi thấy mình bị ghét, bị khai trừ, bị coi như thứ đồ xấu xa thì các tín đồ hãy hân hoan, vì đó là phúc của Chúa ban]
John 15: 18: 18 “Nếu thế giới ghét các người, các người hãy biết rằng thế giới đã ghét Ta trước khi ghét các người.” (If the world hates you, you know that it hated Me before it hated you) [Đây là kinh nghiệm bản thân của Chúa khi Chúa còn sống]
John 14: 19: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Ta”. (A little while longer and the world will see Me no more) [Vì vậy ông ta đã biệt tăm tông tích 2000 năm nay, chẳng có ai trên thế gian còn thấy ông ta nữa. Tại sao? Vì không ai có thể thấy một người chết đã 2000 năm]
John 15: 19: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích những gì thuộc thế gian. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Ta đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” (If you were of the world, the world would love its own. Yet because you are not of the world, but I chose you out of the world, therefore the world hates you) [Người Ca-tô đừng bao giờ nói là yêu nước, vì nước của mấy người không ở trên thế gian. Người đời thường không mấy ưa những người sinh ra trong một nước mà lại không coi nước đó của mình, chỉ mơ tưởng đến một nước ở ngoài thế gian]
John 5: 41: Ta không nhận sự vinh danh từ con người. (I do not receive honor from men) [Đừng có người nào nói đến cụm từ “Vinh danh thiên chúa trên trời”. Chúa không có nhận những lời đó của con người đâu, vả lại Chúa không có ở trên trời]
Matthew 6: 1: "Khi làm việc lành phúc đức, các ngươi phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, các ngươi sẽ chẳng được Cha của các ngươi ở trên trời ban thưởng.” (Take heed that you do not do your charitable deeds before men, to be seen by them. Otherwise you have no reward from your Father in heaven) [Những người Ca-tô làm việc thiện mà khoe khoang như chúng ta thường thấy thì không bao giờ có thể được lên thiên đường để nhận phần thưởng của Gót].
Trần Chung Ngọc
Ngày 1 tháng 6, 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét