Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020

CHUYỆN NOEL: “CỦA CAESAR, TRẢ VỀ CHO CAESAR”

  Công giáo La Mã không có bất cứ thứ gì là của riêng mình. Nhưng nó là một con tắc kè đổi màu và chuyên chô m chỉ a tất cả những thứ gì tác động lên nó và biến chúng thành của nó. Đây chính là chân lý tồn tại của Công giáo suốt 2000 năm qua.

Trong Tân Ước Mátthêu 22:15-22, Dê-sù từng bảo người Pharisêu rằng “Của Caesar, trả lại cho Caesar”. Câu nói này quả là châm biếm nếu chúng ta tìm hiểu về tín lý, giáo lý cho đến các lễ hội mà Chúa giáo đã đánh cắ p từ văn hóa dị giáo rồi sau đó ă n cắ p luôn bản quyền. Dưới đây, tôi xin liệt kê một số chôm chỉa điển hình: +CÂU CHUYỆN ĐẠI HỒNG THỦY VÀ TÀU NOAH TRONG KINH THÁNH CỰU ƯỚC SÁNG THẾ KÝ CHƯƠNG 6-9: Câu chuyện này ă n cắ p từ sử thi Gilgamesh (thế kỷ 18-10 TCN) như sau: -Những vị thần Babylon ngày càng căm ghét loài người, trừ một người công chính. -Thần bảo người này làm con thuyền để chở gia đình, bạn bè và động vật -Đại hồng thủy xảy ra sau đó -Người này gửi chim để tìm kiếm đất liền -Hiến tế động vật và ban phúc lành +DÊ-SÙ SANH RA TỪ MẸ MARIA ĐỒNG TRINH: ă n cắ p từ sự tích thần Romulus & Perseus đã sanh ra từ mẹ đồng trinh +CHUYỆN DÊ-SÙ HY TẾ CHUỘC TỘI CHO CON CHIENS: câu chuyện này ă n cắ p từ 3 câu chuyện sau: -Thần Osiris (khoảng năm 2400 TCN) của Ai Cập: bị giết và sau đó phục sanh. Người nào được rửa tội nhân danh sự chết và sống lại của Osiris sẽ được cứu rỗi ở kiếp sau -Thần Zalmoxis của người Thrace (khoảng năm 1000 TCN): sự chết và phục sanh của thần sẽ giúp cứu rỗi tín đồ có một đời sống vĩnh cửu. -Nữ thần Inanna: là nữ thần tình yêu, sinh sản và chiến tranh của người Sumer. Nữ thần đã bị xử tử bởi tòa án thù địch của thế giới ngầm. Xác của nữ thần đã bị đóng đinh trên cây thập ác. Sau đó nữ thần đã sống lại từ cái chết và lên thông trị thiên đàng. +NOEL VÀ LỄ GIÁNG SINH 25/12: không ai biết Dê-sù sanh ngày nào nhưng chắc chắn không rơi vào mùa đông vì theo Tân ước, lúc Dê-sù sinh đã có 3 nhà hiền triết phương đông đi theo ngôi sao sáng để tìm đến nơi Dê-sù sinh. Nếu Dê-sù sinh vào mùa đông thì bầu trời chẳng có sao nào để mà theo. Công giáo La Mã đã ăn cắp ngày Đông Chí sinh nhật của thần Mithra của Iran để làm ngày sinh Dê-sù. -25/12 là ngày Đông Chí được người Hi Lạp tổ chức từ ngày 17-23 tháng 12 và giới quý tộc La Mã cũng tổ chức ngày sinh của thần mặt trời Mithra vào ngày 25/12 (nguồn gốc từ Iran). -Cây thông Noel (hoặc cây Thường Xuân Evergreens): được người dị giáo cổ đại sử dụng trong lễ hội Đông Chí (winter solstice) với mục đích mong mỏi cây xanh và thần mặt trời sẽ quay lại để sưởi ấm mặt đất. Theo truyền thống Viking ở Bắc Âu, thần mặt trời Baldur sẽ ban cho cây thông (hoặc cây Thường Xuân) cho con người để xua tan cái lạnh mùa đông. -Quà giáng sinh: ăn cắp từ Lễ hội thần Saturn (Saturnalia) được La Mã cổ đại tổ chức vào ngày Đông Chí. Thần Saturn là cha cua thần Jupiter trong thần thoại Hi lạp – La Mã. Ban đầu, lễ hội này bị cấm đoán vào thời Trung Cổ do có nguồn gốc dị giáo. Sau này thì nó trở nên phổ biến như ngày nay vì thu hút được nhiều tín đồ -Đốt lò sưởi bằng gỗ trong đêm Noel: có nguồn gốc từ lễ hội Yule 12 ngày đêm vào dịp Đông Chí.

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2020

NGÀY XƯA ANH NÓI: TÌNH EM BIỂN RỘNG SÔNG DÀI - HOA CÀI MÁI TÓC THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM !!!

  Ngày xửa ngày xưa tại Đất Nước Việt Nam ở Thành Phố Sương Mù  thuộc Vùng Cao Nguyên Đất Đỏ nơi Ngoại Ô Buồn  trong những mái tranh nghèo đêm đêm vang lên những Tiếng chày trên Sóc Bom Bo có hai bạn trẻ đang độ tuổi Mười Sáu Trăng Tròn  chàng tên là Bolero còn nàng tên là Youtube Video yêu nhau thắm thiết, họ thường Hẹn Hò Đêm Trăng trao cho nhau những  lời tình viết vội, trên Con Đường Đến Trường,...

Vào Mùa Gió Chướng chàng thường Hái Hoa Rừng Cho EmBông Cỏ May,...tặng nàng, với mối Tình thơ của tuổi học trò bằng những dòng lưu bút ngày xanh với nét chữ nghiêng nghiêng màu mực tím mồng tơi trong những buổi hẹn hò, cả hai sẽ cùng xây dựng một Túp Lều Lý Tưởng đơn sơ nhưng vô cùng hạnh phúc, bằng những lời yêu thương chân thành tận đáy lòng e ấp dưới ánh nắng hoàng hôn màu tím, bên  Đồi Thông Hai Mộ và trên  những đồi hoa sim  ở Cánh Đồng Hoang của Thành Phố Buồn...

Để lưu lại khoảnh khắc kỹ niệm đẹp của Mùa Xuân Đầu Tiên vào một ngày Chiều Cuối Tuần chàng Đưa Em Vào Hạ cùng Bước Chân Trên Dãy Trường Sơn Lá Đỏ ngắm Mùa Thu Lá Bay lắng nghe Tiếng hát Chim Đa Đa, rong chơi thơ thẩn nhặt những Cánh hoa dầu xoay tít bay bay trong những buổi Chiều hạ vàng, tâm hồn chợt lâng lâng dâng trào cảm xúc yêu đương khi chợt nghe Tiếng chim hót trong bụi mận gai,💋 giữa Khung Trời Tuổi Mộng của Mùa Thu Trên Bạch Mã Sơn  chàng cầm tay nàng khẽ hỏi Em ơi, Biết Đến Bao Giờ chúng mình mới được Tâm sự loài chim biển anh cũng hổng biết mùa này Rừng lá thay chưa ?💗... nàng Lần Đầu Tiên Nói Dối👧 nên Ngại Ngùng ngập ngừng e ấp khẽ đáp Hổng Dám Đâu em hổng muốn nghe anh kể Chuyện Giàn Thiên LýChuyện Tình Cô Lái Đò Bến HạChuyện Tình Lan & ĐiệpChuyện Hàn Mạc TửChuyện Tình Ngưu Lang Chức Nữ, hay Hòn Vọng Phu ...nữa đâu nghe buồn lắm, hay anh Kể Chuyện Trong Đêm và 😊Chuyện Tình La Lan cho em nhoa!😍 cái hiện giờ em đang cần là: Ai Cho Tôi Tình Yêu ?💘👄...đôi má ửng hồng...hai trái tim Đam Mê bắt đầu rung cảm cùng chung nhịp đập Tình Đất Đỏ Miền Đông nàng cảm xúc trào dâng Khúc Hát Người Đi Khai Hoang khi chàng ru Câu Hò Bên Bờ Hiền Lương cho đường Trường Sơn Xe Anh Qua Chào Em Cô Gái Lam Hồng, Tàu Anh Qua Núi...Ngẫu Hứng Lý Qua CầuHương Tình Yêu dâng cao chất ngất chàng phi nhanh Vó Ngựa Trên Đồi Cỏ ,Non Bước Chân Trên Dãy Trường Sơn đến hai mái Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây Ru Nửa Vầng Trăng mân mê hai Nụ hồng mong manh, rồi vòng qua đồng bằng duyên hải Thương về miền trung ghé thăm vùng Biển mặn, tiếp tục Hành Trình Trên Đất Phù Sa theo Lối nhỏ vào đời, thừa thắng xông lên chàng  chống Chiếc Gậy Trường Sơn Lên Đàng Tiến Về Sài Gòn theo nhịp Tiến quân ca, bản Tình Ca Mùa Xuân vang lên giữa Bến Sông Chờ hòa nhịp cùng tiếng thì thầm của Nụ hoa và cây súng...Chuyện Tình Không Dĩ Vãng đã lên Trên Đỉnh Mùa Đông...😍😍Sau đó họ dìu nhau đi tìm vần thơ lãn mạn, ướt đẫm trong cơn mưa học trò vào những ngày Tháng Sáu Trời Mưa trên con Đường Tím Bằng Lăng.

MƯA THÁNG SÁU

Những chiều tháng sáu mưa rơi 
Bão giông bủa kín khung trời mộng mơ 
Cuộc tình ngày ấy ngây thơ 
Dưới mưa bong bóng vẫn chờ gặp nhau.💓👄

😂😂

Chàng vẽ vào lưu bút tặng nàng những cánh Phượng hồng đỏ thắm những Nhánh lan rừng và Hai Sắc Hoa Tigon kèm theo đôi dòng Tâm Sự Với Em  nếu Mai Lỡ Mình Xa Nhau:

              ĐÊM TÂM SỰ

" Viết cho em giữa Đêm Buồn Tỉnh Lẻ

Hỏi em rằng Ngày Sau Sẽ Ra Sao ? 

Giọt Buồn Không Tên Ở hai đầu nỗi nhớ

Nếu Chúng Mình Cách Trở  anh Tìm Lại Người Xưa


Khi  Tình Yêu Trên Dòng Sông Quan Họ

Anh Đắp Mộ Cuộc Tình trên Bến Tương Tư

Phố vắng em rồi anh như Hàn Mặc Tử

Giữa Ngoại Ô Buồn anh Lại Nhớ Người Yêu


 Buồn chi em ơi! khi Đường Tình Đôi Ngã 

 Chút kỹ niệm buồn giữa vùng lá me bay   

Anh sẽ mãi là Hai vì sao lạc

Tấm Chân Tình và tình mãi không phai

Tình em biển rộng sông dài

Hoa cài mái tóc Thương Hoài Ngàn Năm...  " 

XXXX...

I Love You Forever..."

Ký tên: Trần Tử Thiêng

Sau lễ Đính Ước chàng sẽ Đưa Em Về Quê Mẹ lên tàu về quê hương làm một đám cưới nghèo Rước Tình Về Với Quê Hương trên chiếc Thuyền Hoa mang đậm nét mộc mạc duyên quê, lễ tơ hồng thật đơn sơ mộc mạc chỉ với một buồng cau, dăm lá trầu xanh và một chiếc nhẫn cỏ cho em  sau đó hai đứa sẽ xây một  mái ấm đơn sơ một "căn nhà màu tím"  rồi cùng hái Bông điên điển và Bông Bí Vàng dệt thành những Sợi Nhớ Sợi Thương để xây lên lâu đài tình ái. Còn nàng nàng thì mời anh về thăm quê em Chợ Mới trên con Đường Về Hai Thôn ghé thăm những chú Chim Trắng Mồ Côi, cây cầu dừaRặng Trâm Bầu và Bông Ô Môi nghiêng soi bóng nước sông Vàm Cỏ Đông giữa ánh Nắng Lên Xóm Nghèo... 

Rồi cả hai cùng Về Quê  trên những Chuyến Đò Quê Hương Trở Về Dòng Sông Tuổi Thơ có Hình Bóng Quê Nhà nơi miền quê ngoại mịt mờ trong sương trắng. Chàng dìu em đi trên cỏ non men theo Những nẻo đường phù sa về những khu Rừng Lá Thấp  Đất Phương Nam thăm lại Giọt Nắng Bên Thềm thăm Căn nhà dĩ vãngquê hương của ngoại có Hoa Cau Vườn Trầu và con Sông Quê nơi lưu lại một mối Tình Thắm Duyên Quê gợi nhiều nỗi nhớ, chỉ  Vì Trong Nghịch Cảnh mà Cát bụi cuộc đời  đã che lấp Lối Về Đất Mẹ và những Mong Ước Kỷ Niệm Xưa, dấu vết thời gian của Một thời để nhớ về Màu Xanh Kỷ Niệm một thuở Đam Mê của một thời áo trắng mộng mơ...

Thắp những nén tâm hương hương thành kính trên nấm mồ. Ngoại giờ đây đã trở về với Cát Bụi hư vô từ thuở Hoa vàng mấy độ. Ngược dòng ký ức theo Gió về miền xuôi chàng Nhớ Chùa xưa rêu phong cổ kính, ngoại  thường dắt chàng đi dâng hương lễ Phật và cầu nguyện vào dịp Đại lễ Vu Lan Báo Hiếu, chàng nhớ về cha mẹ khi thấy qúy thầy cài Màu Hoa Đỏ thắm lên ngực những đứa bạn còn có cha mẹ và khóc thật nhiều và thầm hứa Hãy Yên Lòng Mẹ Ơi, khi nghe thầy Thiện Thuận giảng bài Bóng Mây và bài Bông Hồng Cài Áo...  

Vào những buổi chiều chủ nhật buồn chàng chở nàng đi lễ ở nhà thờ Con Gà bằng chiếc xe đạp cũ cọc cạch leo lên dốc cao, tuy mệt và thở dốc như sắp đứt hơi, nhưng với tình yêu chân thành chàng dồn hết sức lực vào Khát Vọng Tuổi Trẻ với một khí thế Mùa Hè Xanh hừng hực lửa của những ngày Nam Bộ Kháng Chiến,...mồ hôi tuôn ra nhễ nhại ướt áo chàng, thấy vậy nàng rút khăn mùi xoa lau cho chàng, nhẹ nhàng thỏ thẻ:

- Anh yêu, đạp xe có mệt không ? Để em lau mồ hôi cho anh hết mệt nhoa.

Chàng: - Anh chở em cả đời cũng không biết mệt. Em biết không sau Bảy Ngày Đợi Mong Anh thấy Vườn Tao Ngộ và con  Đường chúng ta đi hôm nay thật tuyệt vời. Cuộc đời vẫn đẹp sao em à. khà khà khà😍😍😍

Nàng cười khúc khích: Anh thề em mới tin

Chàng: Anh xin thề có hai hàng thông bên đường chứng giám, nếu sai lời thì anh sẽ thành Linh Hồn Tượng Đá và Mất hết linh hồn Cho Vừa Lòng Em  em tin chưa ?

Nàng: Dạ, em chỉ đùa anh cho vui tí thôi mà, nếu anh không giữ lời thề thì mất linh hồn thì sao ?

Chàng: Anh đã thề rồi sao giữ được em hãy tin anh đi, Dốc Sương Mù này từ nay anh sẽ đặt tên cho nó là Con Đường Mang Tên Em, và nó sẽ là con đường in đậm Dấu Chân Kỷ Niệm về Chuyện chúng mìnhchàng hát tặng nàng bài Ca dao em và tôi. Những khóm Hoa Trinh Nữ  ven đường cũng đong đưa như đang cổ vũ và minh chứng cho những lời Chàng hứa...từ đây mãi mãi về sau Thiệp Hồng Anh xin viết Tên Em

Nàng e thẹn đấm lưng chàng thùm thụp: Em tin anh rồi, Anh Là Tia Nắng Trong Em dù cho Cát Bụi Cuộc Đời có Phôi Pha và Tình Ngăn Đôi Bờ em vẫn không bao giờ quên anh. Em cầu Xin Anh Giữ Trọn Tình Quê cả hai cùng cười tươi,...Khi Mùa xuân đó có em con đường đi đến nhà thờ hôm nay thơm ngát Hương Tình Yêu và trở nên ngắn lạ... 

  Rồi Mùa Xuân Lá Khô đã đến sau khi chàng nghe lời nàng đi học lớp giáo lý hôn nhân được Cha làm phép Rửa tội tân tòngChàng tạ ơn chúa đã ban cho chàng một người yêu vô cùng lý tưởng vâng lời cha  Ngô Phúc Hậu dạy về quyền năng và sự mầu nhiệm của thiên chúa, về ngày tận thế và ngày phán xét cuối cùng của đức Chúa trời và Phải luôn tạ ơn chúa trong mọi hoàn cảnh...Ngày hạnh phúc nhất của họ là ngày Cánh Thiệp Đầu Xuân báo tin vui đã được trao cho nhau. Người em xóm đạo  hôm nay xinh tươi rạng ngời trong bộ Áo Cưới Màu Hoa Cà bên cạnh chàng Người phu kéo mo cau năm nào. Họ trao cho nhau những nụ hôn nồng thắm giữa  Phút Giao Mùa  trong thánh đường, Đám Cưới Đầu Xuân đầy ắp những lời thề nguyện và lời chúc lành của cha xứ, bạn bè và bà con hai họ, nhưng những Ngày Vui Qua Mau chỉ Còn Lại Những Đêm Say của dư âm Mùa Xuân Bên Cửa Sổ ...

Một ngày nọ như thường lệ vẫn trên chiếc xe đạp kỹ niệm mối tình đầu chàng chở nàng đi lễ, lúc này nàng đã có thai với cái bụng to và nặng nề hơn trước, chiếc xe lên dốc chậm chạp theo nhịp tim thở dồn dập của chàng, khi thấy những giọt mồ hôi của chồng tuôn ra nhễ nhại, nàng lấy khăn vừa lau mồ hôi cho chàng vừa nói: Anh yêu anh có mệt không?

Chàng vừa thở hổn hển vừa nói: Tui người ta chứ có phải Tr....âu B....ò đ...âu m...à h...ổng b...iết m...ệt !!! Ph..ù ph...ù ph...ù...!!!😡😡😡

 Tình Nhỏ Mau Quên Chỉ tại vô tình mà Con đường xưa em đi đến nhà thờ con Gà chiều nay trở nên dài thẳm thẳm. Hai Sắc Hoa TigônMàu Tím Băng Sê,  Hoa bằng lăng tím,...Những Bài Tình Ca Cho Em: Sắc Hoa Màu Nhớ  những cánh Phượng Buồn và màu Hoa Tím Người Xưa giờ đây trở nên xa Lạ Lắm...khi Sương Lạnh Chiều Đông buông xuống nàng nhớ lại Đôi Mắt Người Xưa và những lời mà Ngày Xưa Anh Nói,...Để rồi Hai Đứa Giận Nhau, trong cơn Mưa Đêm Tỉnh Nhỏ những Giọt Lệ Đài Trang bắt đầu lăn Ướt Mi, Nửa Đêm Ngoài Phố trên bầu trời  Đêm Đông bỗng dưng xuất hiện Hai vì sao lạc, những đóa  Hoa Sứ  Nở Về Đêm đã bắt đầu hé nhụy, mùi Hương Thầm lan tỏa lâng lâng, nhìn những hạt Mưa bụi bay bay trong Ngõ Hồn Qua Đêm nàng Hồi Tưởng  đến  Những ngày xưa thân áiGiọng Ca Dĩ Vãng và Bài Ca Kỷ Niệm hôm nào lại vang lên trong Quán Nửa Khuya giữa  Đêm Buồn Phố Thị, Ngày đó xa rồi, nàng thầm nghĩ phải chăng Duyên PhậnĐịnh Mệnh và Số Phận của chúng ta đều do Chúa sắp đặtkhi anh đã vô tình Lật Ngửa Ván Bài và cũng không hề có một lời nào để Ăn NănTình Nhạt Phai, tình yêu anh dành cho em giờ đã trở thành Người Tình Mùa Đông, qua Hai Mùa Noel con Chim sáo ngày xưa chiều nay đã không còn hót nữa. Thật Xót Xa lòng khi nghe lại Bài Thánh Ca Buồn giữa Phố ĐêmNgười Tình Ngoại Đạo ơi !!! Thoáng Giấc Mơ Qua Mộng Ước Đôi Ta mùa giáng sinh năm nay nhìn những Tấm Ảnh Không Hồn em nhớ lại Thuở Ban Đầu chính em là Cô Gái Mở Đường cho Đường Trường Sơn Xe Anh Qua năm xưa, nhìn chiếc Vòng tay cầu hôn lòng em trĩu nặng một Nỗi Buồn Đêm ĐôngNhịp Cầu Tri Âm nay đã gãy. Từ đây chắc anh sẽ không bao giờ "Ru Lại Câu Hò" cho em nghe nữa rồi. Chúa ơi, Mẹ ơi, Các thánh ơi...!!! con xin hỏi các ngài Vì Sao Con Đau Khổ ?  Giờ con đã Xa Người Mình Yêu. Những Khát Vọng trong Lá Thư Trần Thế lời Nguyện cầu Ngày Đá Đơm Bông và Giấc Mơ Tuổi 20 của con hôm nào giờ đã thành Vầng Trăng Khóc,...Người yêu ơi...!!! Tình Là Sợi Tơ mong manh, nhưng Tôi Nhớ Tên Anh  mãi mãi vì  Anh Còn Nợ Em một lời Xin lỗi tình yêu. hoặc là anh nói Thà trắng thà đen  trong Đêm thánh mê cuồng cho Đoạn Cuối Tình Yêu. Nên kể Từ Đó Em BuồnQuá buồn. Amen  O....h M.....y G.....od!!!.😢😢😢







THIÊN CHÚA GIÁO VÀ NHỮNG LỜI NÓI LÁO VĨ ĐẠI

 

Dorothy Nelkin đã có nhận định: " Gần hai ngàn năm qua, các con chien gia-tô bị lừa bịp bởi những lời nói L.áo Vĩ Đại." Trích dẫn lời của Jesus: "Ta Chịu Sai Xuống Đây Chỉ Vì Các con CỪU lạc Mất Của Nhà Y-sơ-ra-ên Đó Thôi." (Ma-thi-ơ;15:24) " Vậy, nếu chiens dự định lên thiên đường ở cùng giê-su đầy tình thương, và chiens không phải là Người Do-Thái. Chiens nên nghĩ lại đi thì vừa.!"

Dương Hồng Phụng | Facebook



SỰ GIỐNG NHAU GIỮA BẦY HEO VÀ BẦY CHIENS

Có 1 anh bộ đội gốc Ninh Bình về hưu sau năm 79,đi vay ngân hàng, thân hữu và bà con được hơn tỷ bạc, nuôi 300 con heo rừng rặc giống, theo bản tánh hoang dại, heo đã phá rào trở về rừng, cuối mùa chỉ còn sót lại tầm 150 con,lỗ vốn nặng,sau nhiều phen tính toán giữ gìn đàn heo vẫn không mấy hiệu quả, có lần theo 1 người bạn đi nhà thờ, anh thấy chủ chăn cho người ta ăn cái gì đó, và vĩnh viễn không bao giờ bỏ nhà thờ,đi đâu cũng quay lại chốn cũ,anh liền có sáng kiến cho bầy heo uống nước có pha it muối và mì chính từ khi còn non, bay heo lớn dần,nhiều phen chúng phá rào về rừng,bị đói khát, rồi cũng mò về chuồng trại kg thiếu một con, vì chúng đã nghiện và thèm nước muối bột ngọt, bây giờ "tín hữu" heo của anh ta, mỗi vụ thu hoạch tầm 9 tấn, thịt nuôi bán thiên nhiên và kg dùng thực phẩm gia súc,heo tuy chậm lớn, nhưng mối kí lô heo hơi bán tại gốc là 250k một kí lô...Anh Charlie Nguyễn, và BS Nguyễn văn Thọ,đều có nhắc đến chứng nghiện đạo của ráo rân,đúng là Cừu dê quen rơm cũ, cho dù có đuổi nó đi thì nó cũng mò về!Heo rừng cũng không ngoài lệ! 

(1) Dương Hồng Phụng | Facebook




Thứ Năm, 26 tháng 11, 2020

Đạo Chúa là đạo ăn cắp - Dê Su không có ngày sinh nhật

 (1). Ngày 25 tháng 12, ngày Nôen mà cả thế giới đang kỷ niệm, không phải là ngày giáng sinh của Đức Chúa Jêsus.

A. Sự thật rằng ngày 25 tháng 12 chẳng liên quan tới giáng sinh của Đức Chúa Jêsus là một lý thuyết đã được chấp nhận là sự thật thông qua các phương tiện truyền thông cũng như lịch sử hội thánh một cách công khai. Vậy thì làm sao một ngày chẳng liên quan tới Đức Chúa Jêsus đã biến thành ngày giáng sinh? Từ bây giờ chúng ta hãy tìm xem nguồn gốc ấy.
Nguồn gốc của ngày Nôen
Ngày 25 tháng 12 vốn là ngày đông chí của La Mã chúc mừng giáng sinh của mặt trời. Đương thời ấy, đạo Mithra tin vào thần mặt trời đã lan truyền rộng rãi trên khắp La Mã. Những người tôn kính thần mặt trời tin rằng mặt trời đã sanh ra vào ngày đông chí, là ngày mà buổi chiều ngắn nhất trong một năm. Tại vì họ cho rằng thời gian buổi chiều tăng thêm sau đông chí là vì mặt trời mới sanh ra và càng ngày sức mạnh của nó càng tăng lên.
Họ coi ngày 25 tháng 12 là đông chí và tổ chức lễ hội với quy mô lớn tại khắp La Mã trước và sau ngày này. Dĩ nhiên, đối với những Cơ Đốc nhân ban đầu thì đây là ngày vô nghĩa, nhưng khi ý chí gìn giữ lẽ thật suy yếu đi thì tình huống đã biến đổi. Hội thánh La Mã đã trở nên thế tục hóa sau khi hoàng thất công nhận tôn giáo của họ, thậm chí họ còn tìm cách để tham gia vào lễ hội của thần mặt trời nhằm mục đích để mở rộng thế lực của hội thánh. Chính vì thế họ đã bắt đầu chấp nhận lễ hội của đạo thần mặt trời, định ngày 25 tháng 12 - ngày sinh của thần mặt trời thành ngày giáng sinh của Đức Chúa Jêsus vào năm 354 SCN, rồi kỷ niệm ngày đó.
《Lịch sử hội thánh, trang 141》
Cơ Đốc giáo và tập quán ngoại đạo:
Hội thánh Cơ Đốc đã chấp nhận nhiều tư tưởng và biểu tượng của ngoại đạo. Ví dụ như họ đã quyết định ngày giáng sinh của Đức Chúa Jêsus là ngày 25 tháng 12 - ngày thờ phượng mặt trời.
Những phong tục bắt nguồn từ tư tưởng ngoại đạo
Các loại phong tục liên quan đến ngày Nôen như nhạc giáng sinh được vang ra trên đường phố, quà tặng lẫn nhau, cây thông được trang trí với màu sắc đa dạng v.v... đều liên quan sâu sắc với tư tưởng ngoại đạo.
Việc trao tặng quà lẫn nhau đã bắt nguồn từ ngày tế lễ thần nông của La Mã. Tại La Mã cổ đại, vào cuối tháng 12, có ngày lễ Sigillalia, là phong tục tặng quà như búp bê cho các trẻ em, mà lễ ấy đã được phổ biến trong hội thánh sau khi ngày Nôen biến thành ngày lễ của Cơ Đốc giáo.
Cây thông Nôen được trang trí bằng nhiều đồ vật cũng giống vậy. Các địa phương như Babylôn cổ đại, Ai Cập, La Mã v.v... đều có tư tưởng sùng bái cây thường xanh, cho nên vào năm mới, họ trang trí xung quanh nhà bằng cây thường xanh, cử hành nghi thức đẩy lùi ác thần, và cũng trang trí cây bằng trái đỏ biểu tượng cho mặt trời.
Những phong tục bắt nguồn từ tư tưởng ngoại đạo như thế này đã vào trong hội thánh ngay cả trước khi ngày 25 tháng 12 biến thành ngày giáng sinh của Đức Chúa Jêsus, rồi được thịnh hành trên khắp thế giới khi ngày Nôen trở thành ngày lễ kiên cố của Cơ Đốc giáo.
Luật lệ ngoại đạo gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời
Kinh Thánh đã tiên tri trước rằng hội thánh sẽ phạm hành vi tôn kính thần mặt trời như ngày Nôen.
Êxêchiên 8:15-16 “Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, thấy chưa? Ngươi sẽ còn thấy những sự gớm ghiếc lớn hơn nữa! Kế đó, Ngài đem ta vào hành lang trong của nhà Ðức Giêhôva; nầy, nơi lối vào đền thờ Ðức Giêhôva, giữa hiên cửa và bàn thờ, ta thấy có ước chừng hai mươi lăm người sấp lưng về phía đền thờ Ðức Giêhôva và xây mặt về phía đông, hướng về phương đông mà thờ lạy mặt trời.”
Theo như lời tiên tri của Đức Chúa Trời, hành vi tôn kính thần mặt trời đang diễn ra trong đền thờ chí thánh một cách tinh xảo. Vậy thì những kẻ theo luật lệ và phong tục của tôn giáo ngoại bang sẽ ra sao?
Êxêchiên 11:10-12 “Các ngươi sẽ ngã bởi gươm; ta sẽ đoán xét các ngươi trong bờ cõi Ysơraên, các ngươi sẽ biết rằng ta là Ðức Giêhôva. Thành nầy sẽ chẳng làm nồi cho các ngươi, các ngươi sẽ chẳng làm thịt giữa nó; ta sẽ đoán xét các ngươi trong bờ cõi Ysơraên. Bấy giờ các ngươi sẽ biết ta là Ðức Giêhôva, vì các ngươi đã không bước theo lề luật ta, không giữ theo mạng lịnh ta; nhưng đã làm theo mạng lịnh các nước chung quanh mình.”
Đức Chúa Trời coi gớm ghiếc cho những kẻ theo luật lệ của ngoại bang chứ không phải là luật lệ của Đức Chúa Trời, và cảnh báo rằng Ngài sẽ phán xét họ. Người dân của Đức Chúa Trời phải phân biệt trọn vẹn điều đẹp lòng Đức Chúa Trời và điều không đẹp lòng Đức Chúa Trời. Dầu là ngày mà cả thế giới kỷ niệm một cách to lớn, nhưng việc giữ ngày Nôen là hành vi tôn kính thần tượng mà Đức Chúa Trời không đẹp lòng. Chúng ta nên phải trở thành các thánh đồ chân thật làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng cách quý trọng và giữ các luật lệ mà Đức Chúa Trời phán hãy giữ.
《Lịch sử hội thánh, trang 174-175, Lee Gun Sa》
Ngày giáng sinh: Việc kỷ niệm đầu tiên ngày giáng sinh của Đấng Christ vào ngày 25 tháng 12 (Ngày Nôen) đã xuất hiện năm 354 sau công nguyên, là ở đời Liverius - tổng giám mục La Mã. Và vào năm 379, ngày này lại được kỷ niệm ở thành Constantinople, và được truyền đến Ai Cập và Paletin. Nếu nói riêng về sự khởi nguyên ngày Nôen thì ấy là từ phong tục của nước La Mã mà có. Ở nước La Mã, những ngày gần cuối tháng 12 mỗi năm đã có ba lễ lớn liên tiếp được tổ chức và kỷ niệm kéo dài cho đến cuối tháng 12.
Lễ đầu tiên là Saturnalia (Từ ngày 12 đến 24 tháng 12), là lễ của nước La Mã cổ đại kỷ niệm thần nông - Saturn. Trong những ngày lễ này, mọi người đều uống rượu và say sưa buông tuồng; không phân biệt kẻ giàu, người nghèo; không kể người chủ, kẻ tôi tớ.
Lễ thứ hai là Sigillaria (cuối tháng 12). Trong lễ này, người La Mã cổ đại tặng búp bê cho trẻ em để vui chơi.
Lễ thứ ba là Brumalia, là lễ đông chí kỷ niệm sự mọc lên của mặt trời.
Tuy nhiên, những Cơ Đốc nhân không thể dự những lễ như vậy, tìm một lễ riêng cho họ để kỷ niệm sự ra đời của Đức Chúa Jêsus. Theo họ, việc kỷ niệm giáng sinh Đức Chúa Jêsus sau khi mặt trời mọc lên là hợp lý. Thói quen và phong tục ngoại đạo đó đã trở nên là ngày kỷ niệm giáng sinh Đấng Christ vào 25-12, ngày thực chất là sinh nhật của thần mặt trời. Ấy là khởi nguyên của ngày Nôen.
《Báo Văn Hóa, Hàn Quốc, ngày 24 tháng 12 năm 2007》
Ngày 25 tháng 12, ngày Nôen, tức là ngày giáng sinh mà chúng ta kỷ niệm hàng năm đã bắt nguồn từ đâu? Người ta thường biết rằng đó là “ngày giáng sinh của Đức Chúa Jêsus Christ” nhưng thực ra đó không phải là sự thật căn cứ lịch sử.
Ngày Nôen bắt đầu được kỷ niệm vào ngày 25 tháng 12 vào thế kỷ thứ 4 SCN. Hội thánh La Mã (hội thánh tây phương) bắt đầu kỷ niệm ngày giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 từ năm 354 để gần gũi với ngoại đạo.
Nhạc giáng sinh là điệu nhạc nhảy của ngoại đạo
Carol (Nhạc giáng sinh) vốn là từ chỉ ra nhảy vòng của nước Pháp thời trung cổ. Nhảy vòng này cũng là điệu nhạc nhảy của ngoại đạo được sử dụng trong lễ hội đông chí.


Thứ Tư, 25 tháng 11, 2020

GIÁO SĨ THỪA SAI NHỮNG TÊN LÍNH TIÊN PHONG TRONG CÔNG CUỘC XÂM LƯỢC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY - ÔN CỐ NHI TRI TÂN _ 24/11/2020 F

Vatican đã từng có âm mưu công giáo hóa Nhật Bản và tiêu diệt Phật giáo nhưng thất bại.

.
Nhân sự kiện GH Francis thăm Nhật Bản, tôi post lại bài viết này để các bạn nắm rõ Vatican đã từng có âm mưu công giáo hóa Nhật Bản và tiêu diệt Phật giáo nhưng thất bại.
LỊCH SỬ TRUYỀN ĐẠO CÔNG GIÁO VÀO NHẬT BẢN: “cải đạo, tiêu diệt Phật giáo, xung đột chính trị và nội chiến, vũ trang chống lại triều đình và cuối cùng bị tiêu diệt.”
Trích: “Vào năm 1596, một tàu chiến Tây Ban Nha tên San Felipe bị đắm ngoài khơi biển của Tosa. Lãnh chúa Hideyoshi ra lệnh tịch thu tàu chiến và hàng hóa trên tàu. Thuyền trưởng Tây Ban Nha nổi giận đã xỉ nhục quan chức Nhật bản bằng cách ba hoa rằng sở dĩ Tây Ban Nha có được một đế chế rộng lớn và trưng ra bằng chứng là một tấm bản đồ với tất cả những thuôc địa thuộc của Tây Ban Nha trên toàn thế giới. Quá đỗi ngạc nhiên, quan chức Nhật mới hỏi lý do mà Tây Ban Nha có thể chinh phục được nhiều đất đai như vậy. Thuyền trưởng Tây Ban Nha khoát lác rằng Nhật bản không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha, đơn giản bởi vì Nhật bản KHÔNG CÓ CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI CÔNG GIÁO. Thuyền trưởng xác nhận rằng tất cả các thuộc địa mà Tây Ban Nha có được bằng cách ĐẦU TIÊN GỬI CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI ĐẾN ĐỂ CẢI ĐẠO, SAU ĐÓ QUÂN ĐỘI TÂY BAN NHA SẼ PHỐI HỢP VỚI CON CHIÊN BẢN ĐỊA ĐỂ HOÀN THÀNH CUỘC CHINH PHỤC. Khi tin tức này được bào cáo lại, lãnh chúa Hideyoshi đã giận run người. Sự nghi ngờ của ông về việc sử dụng giáo sỹ thừa sai như là bước đầu tiên để chinh phục thuộc đia đã được xác nhận. Ông đã nhận ra chiến lược chinh phục xảo quyệt này đang có tác dụng trên lãnh thổ của ông.”
TÓM TẮT:
Các nhà truyền giáo Vatican được chào đón ở Nhật vào thế kỷ 16 và được những lãnh chúa Nhật Bản bảo vệ, cấp đất, cấp kinh phí hằng năm, nỗi bậc là lãnh chúa Nobunaga (1573-1582). Công giáo Nhật lớn mạnh dạy con chiên Nhật chỉ trung thành với giáo hoàng và bắt đầu can thiệp vào chính trị ở Nhật. Công giáo chống lại triều đình và gây ra bất ổn dân sự và nội chiến. Công giáo khủng bố tiêu diệt Phật giáo ở Kyoto và Osaka. Những trận chiến diễn ra giữa Dòng Tên (Tây Ban Nha hậu thuẫn) và Dòng Thánh Francis (Bồ Đào Nha hậu thuẫn) khi tranh giành con chiên. Thủ lãnh Tây Ban Nha (Dòng Tên) chống lại lệnh trục xuất của nhà cầm quyền Nhật Hideyoshi . Công giáo Nhật bản vũ trang chống lại triều đình, nỗi bậc là Dòng Tên đã lãnh đạo đội quân 30,000 con chiên Nhật, giết chết Thống đốc của Shimbara. Chính quyền cầu viện tàu chiến của Hà Lan giúp Nhật Bản tiêu diệt pháo đài của Công giáo. Sắc lệnh “Bế Quan Tỏa Cảng” ban hành năm 1639: tất cả Kitô hữu bị cấm vào Nhật vĩnh viển. Mãi đến 250 năm sau, Phó đề đốc hải quân Hoa Kỳ Perry dẫn đầu đoàn chiến thuyền đến yêu cầu Nhật bản mở cửa, Sắc lệnh “Bế Quan Tỏa Cảng” mới được bãi bỏ.
TỔNG QUAN
Tôn giáo ở Nhật Bản được thống trị bởi hai tôn giáo chính: Thần đạo - Shinto (tôn giáo dân gian của người Nhật) và Phật giáo với các tổ chức liên quan. Theo cuộc điều tra được thực hiện vào năm 2006 và năm 2008, dưới 40% dân số của Nhật Bản tự nhận đi theo một tôn giáo có tổ chức: khoảng 35% là Phật giáo, 3% đến 4% là tín đồ của Thần đạo và các tôn giáo phái sinh từ Thần đạo, và ít hơn 1% đến 2.3% dân số theo Kitô giáo.
Con người Nhật bản, văn hóa Nhật bản được kính trọng trên toàn thế giới bởi tính trung thực, lòng tự trọng và tính nhân văn. Ít ai biết được lịch sử cận đại của Nhật bản đã trải qua một giai đoạn đau thương khi Công giáo La mã được truyền vào quốc gia này và gây ra cải đạo hàng loạt đi kèm với bách hại Phật giáo.
Theo “Vietnam, Why did we go” (của tác giả Avro Manhattan Avro Manhattan, 1984, chương 18) giống như truyền đạo vào Trung Quốc và Thái lan, chiến lược căn bản của Vatican vẫn là sử dụng giới gian thương câu kết với giáo sỹ mê hoặc tín đồ để cuối cùng chinh phục thuộc địa bằng quân sự bởi các Công quốc liên minh với Vatican như Tây Ban Nha, Bồ Đào nhà và các nước phương Tây nhằm mở rộng nước chúa.
Nhật bản lần đầu tiên tiếp xúc với thế giới phương Tây rất hào hứng trao đổi văn hóa và thương mại. Các thuyền buôn Bồ Đào Nha lần đầu tiên cập cảng Nhật Bản được chào đón nồng nhiệt và các giáo sỹ được tự do truyền đạo Công giáo ở vùng đất mới này. Những giáo sỹ này đã được nhà độc tài hùng mạnh, lãnh chúa Nobunaga (1573-1582) bảo hộ. Ông ta khuyến khích và cho phép các giáo sỹ truyền giáo trên khắp lãnh thổ. Ông hiến đất ở Kyoto và thậm chí còn hứa hẹn trợ cấp mỗi năm. Nhờ vào điều này, chẳng bao lâu cơ sở Công giáo đã được mọc lên khắp nơi trên đất Nhật bản với hàng ngàn người bị cải đạo.
Tuy nhiên, các giáo sỹ thừa sai không muốn hạn chế lãnh vực hoạt động của mình trong việc truyền bá đức tin. Một khi cộng đồng Công giáo được thành lập, họ muốn áp đặt cả nền tư pháp, ngoại giao và chính trị của Vatican lên đất nước mới này. Vì được nhồi sọ như là một đức tin, người Nhật cải đạo không chỉ quy thuận triều đình Nhật, theo đức tin, họ đã trở thành con cái chúa và phải vâng phục giáo hoàng có trụ sở tại Vatican. Một khi lòng trung thành của con chiên Nhật bị chuyển sang trung thành với ngoại bang, con chiên tự động bất trung với nhà cầm quyền Nhật.
Điều này dẫn đến những nguy cơ khủng khiếp cho những hiểm hoại nội xâm và ngoại xâm ở Nhật. Về nội xâm, sự bất khoang dung tôn giáo của Công giáo đã dẫn đến xung đột giữa các tôn giáo bởi vì tín lý cơ bản của Công giáo nhồi sọ con chiên rằng chỉ duy nhất Công giáo mới là tôn giáo của sự thật và dĩ nhiên điều này đã dẫn đến xung đột dân sự. Về đối ngoại, Công giáo Nhật bản phải theo sự điều hành của các giáo sỹ ngoại bang, không chỉ ủng hộ lợi ích thương mại của các thương lái Công giáo ngoại quốc mà còn phải ủng hộ những kế hoạch chính trị của Vatican để chinh phục châu Á qua chính trị và quân sự.
Không lâu sau khi những thừa sai Công giáo hiện diện, các nhà cầm quyền Nhật bản bắt đầu nhận ra rằng Công giáo không chỉ là một tôn giáo, mà nó còn là một thế lực chính trị liên kết chặc chẽ với sự bành trướng đế quốc của những công quốc như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và những nước phương Tây.
Tín lý độc ác của Công giáo cho rằng Công giáo là tôn giáo của sự thật và duy nhất đúng và cho rằng những sai lầm không nên được dung thứ. Chính tín lý này đã bắt đầu tạo ra hoa trái ở trên đất Nhật bản.
Bất cứ khi nào và ở đâu có người cải đạo sang Công giáo và cộng đồng Công giáo được thành lập và bành trướng, ở đó sẽ có sự áp đặt tôn giáo, sẽ có những phật tử và những người bản xứ với tôn giáo bản địa phải chịu đựng số phận bị tẩy chay, đền chùa bị đóng cửa và nếu không bị phá hủy thì cũng bị chiếm đoạt và chuyển thành nhà thờ. Rất nhiều trường hợp phật tử bị cưỡng bách cải đạo, nếu không có thể bị tước đoạt tài sản hoặc thậm chí nguy hại đến tính mạng. Đối diện với những hành vi độc ác như vậy, thái độ của nhà cầm quyền Nhật bản bắt đầu thay đổi.
Khi biết được sự thành công vượt bậc của Công giáo ở đế quốc Nhật bản xa xôi, Tòa thánh Vatican đã lên kế hoạch bành trướng về chính trị và sử dụng sách lược kinh điển với giáo sỹ đi trước để nhồi sọ con chiên vâng phục, phối hợp với năng lực quân sự của những quốc gia Công giáo đồng minh. Vatican háo hức muốn mang thập giá, giáo quyền, những hiệp ước thương mại sinh lợi nhuận và chinh phục bằng quân đội áp đặt lên Nhật bản. Vatican từng có kinh nghiệm áp dụng chiến lược này để chinh phục châu Mỹ. Nhiều giáo hoàng bao gồm Leo X đã ban phước, khuyến khích và thậm chí hợp thức hóa những cuộc chinh phục, xâm lược chiếm đất vùng Trung Đông của những công quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nỗi bậc hơn cả là giáo hoàng Alexander VI đã ban cho Tây Ban Nha "tất cả đất đai và hải đảo được tìm thấy trên đường đến Ấn Độ" (xem sách The pope's Bull của Castill). Lãnh thổ Nhật bản đã được giáo hoàng ban cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thống trị.
Do vậy, khi cộng đồng Công giáo Nhật bản đủ lớn mạnh để hỗ trợ, Vatican đã đi một bước chiến lược quan trọng đầu tiên trong kế hoạch dài hơi: biến Công giáo Nhật bản trở thành một công cụ chính trị.
Để thực hiện chiến lược này, vào năm 1579 Vatican đã gửi một trong những giáo sỹ dòng tên có năng lực nhất tên là Valignani để sang Nhật tổ chức Công giáo Nhật bản nhằm thực hiện kế hoạch này. Dĩ nhiên, kế hoạch của Valignani ban đầu được ngụy trang trong lớp vỏ thuần túy tôn giáo và được sự ủng hộ của nhiều lãnh chúa hùng mạnh như Omura, Arima, Bungo và một số khác. Trong những giáo phận dựng nên, Valignani đã xây dựng trường học, bệnh viện, nhà dòng và đào tạo thế hệ trẻ Nhật bản về thần học, văn học chính trị và khoa học.
Một khi sự xâm nhập đủ sâu vào tín ngưỡng, giáo dục, cấu trúc xã hội của giáo phận, Valignani đã đi bước kế tiếp và thuyết phục các lãnh chúa gửi một đoàn ngoại giao đến gặp giáo hoàng. Khi đoàn ngoại giao quay về Nhật vào năm 1590, tình hình Nhật bản đã thay đổi trầm trọng. Lãnh chúa Hideyoshi (1536 – 1598, Hán-Việt: Phong Thần Tú Cát hoặc Vũ Sài Tú Cát) mới thay thế Nobunaga đã thấy được dã tâm chính trị của Công giáo và sự vâng phục của nó đối với giáo hoàng Vatican. Ông ta quyết định liên kết với phật giáo - một lực lượng đồng hành với dân tộc và không bị ngoại bang giật dây.
Năm 1587, Hideyoshi đến thăm vùng Kyushu và ngạc nhiên về tội ác của cộng đồng Công giáo nơi đây. Ông ta thấy khắp nơi trong vùng là những đền chùa Phật giáo, tượng Phật bị đập phá hoặc hoang phế. Thật ra, Công giáo đã cưỡng bách và biến toàn đảo Kyushu thành vùng đất toàn tòng công giáo. Vô cùng căm phẫn, Hideyoshi đã cáo buộc Công giáo về những vụ tấn công Phật giáo, về sự bất khoang dung tôn giáo, về sự trung thành với ngoại bang Vatican và những khinh tội khác. Ông đã ra tối hậu thư cho tất cả thế lực Công giáo ngoại bang chỉ có 20 ngày để rời khỏi Nhật bản.
Sau đó, nhà thờ và tu viện ở Kyoto, Osaka bị phá hủy để trả thù cho những đợt tấn công vào Phật giáo và quân đội được điều đến Kyushu. Những biện pháp như vậy chỉ thành công một phần bởi vì xã hội Nhật bản đã bị Công giáo xâm nhập quá sâu. Năm 1614, tất cả giáo sỹ Công giáo ngoại quốc một lần nữa lại bị trục xuất. Lệnh trục xuất lần này còn được xúc tiến mạnh mẽ bởi vì một lý do nghiêm trọng hơn. Số là các giáo sỹ công giáo bên cạnh việc cổ súy cho bất khoang dung tôn giáo giữa những người Nhật còn bắt đầu tổ chức một cuộc chiến tranh ác liệt giữa các dòng với nhau.
Những bất hòa giữa các giáo sỹ dòng Tên và các giáo sỹ dòng Francis đã chia cắt cộng đồng công giáo Nhật bản. Sự hận thù giữa các dòng với nhau trở nên rất nghiêm trọng đến nỗi nhà cầm quyền Nhật lo ngại sẽ xãy ra nội chiến. Họ lo ngại cuộc nội chiến này có thể dẫn đến sự can thiệp quân sự của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha để bảo vệ giáo sỹ mỗi dòng.
Quân đội nước ngoài can thiệp vào Nhật đồng nghĩa với Nhật bản mất độc lập tự chủ. Liệu có thổi phồng nguy cơ quá cao? Thực ra thì sự bành trướng kinh khủng của Công giáo Bồ Đào Nha và Công giáo Tây Ban Nha là một thực tế chứng minh cho nguy cơ trên. Sự truyền giáo của dòng Francis sang Nhật phát xuất từ nước Philippines bị chinh phục vào năm 1593 làm cho lãnh chúa Hideyoshi thực sự lo lắng. Giáo sỹ dòng Francis phớt lờ lệnh cấm truyền giáo, xây dựng nhà thờ và cải đạo ở Kyoto, Osaka và thách thức chính quyền. Để làm phức tạp tình hình, dòng Francis bắt đầu gây chiến với dòng Tên của Bồ Đào Nha. Giọt nước làm tràn ly khiến lãnh chúa Hideyoshi quyết định dùng những biện pháp mạnh đó là một biến cố nhỏ nhưng có ý nghĩa được kể sau đây.
Vào năm 1596, một tàu chiến Tây Ban Nha tên San Felipe bị đắm ngoài khơi biển của Tosa. Lãnh chúa Hideyoshi ra lệnh tịch thu tàu chiến và hàng hóa trê tàu. Thuyền trưởng Tây Ban Nha nổi giận đã xỉ nhục quan chức Nhật bản bằng cách ba hoa lý do mà Tây Ban Nha có được một đế chế rộng lớn và trưng ra bằng chứng là một tấm bản đồ về những thuộc địa của Tây Ban Nha trên toàn thế giới. Quá đỗi ngạc nhiên, quan chức Nhật mới hỏi lý do mà Tây Ban Nha có thể chinh phục được nhiều đất đai như vậy. Thuyền trưởng Tây Ban Nha khoát lác rằng Nhật bản không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha đơn giản bởi vì Nhật bản KHÔNG CÓ CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI CÔNG GIÁO. Thuyền trưởng xác nhận rằng tất cả các thuộc địa mà Tây Ban Nha có được bằng cách ĐẦU TIÊN GỬI CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI ĐẾN ĐỂ CẢI ĐẠO, SAU ĐÓ QUÂN ĐỘI TÂY BAN NHA SẼ PHỐI HỢP VỚI CON CHIÊN BẢN ĐỊA ĐỂ HOÀN THÀNH CUỘC CHINH PHỤC. Khi tin tức này được báo cáo lại, lãnh chúa Hideyoshi đã giận run người. Sự nghi ngờ của ông về việc sử dụng giáo sỹ thừa sai như là bước đầu tiên để chinh phục thuộc đia đã được xác nhận. Ông đã nhận ra chiến lược chinh phục xảo quyệt này đang có tác dụng trên lãnh thổ của ông.
Năm 1597, chính quyền ra lệnh cấm giáo sỹ của cả 2 dòng Tên và Francis. 26 giáo sỹ ở Nagaski bị trói gô và xử tử. Một lệnh trục xuất tất cả các nhà truyền giáo công giáo ngoại quốc được ban hành.
Năm 1598, Hideyoshi chết và Công giáo được dịp phục hồi. Lãnh chúa Leyasu lên cầm quyền vào năm 1616 đã ra sắc lệnh trục xuất còn quyết liệt hơn. Các giáo sỹ ngoại quốc một lần nữa bị buộc phải rời khỏi Nhật bản và án tử hình được áp dụng cho các con chiên Nhật không chịu từ bỏ công giáo. Chính sách cấm đạo này xãy ra càng mạnh mẽ hơn vào năm 1624 dưới quyền lãnh chúa Jemitsu (1623-1651) khi tất cả thương nhân và giáo sỹ Tây Ban Nha được lệnh trục xuất ngay tức khắc. Con chiên Nhật bản được cảnh báo không được xuất ngoại theo chân các giáo sỹ và thương nhân Nhật bản không được giao thương với thương nhân công giáo. Để chắc chắn những sắc lệnh này được tôn trọng, tất cả hải thuyền có thể chở tải trọng trên 2500 giạ gạo đã bị phá hủy. Chính quyền đã quyết định tiêu diệt Công giáo ở Nhật bản. Ngoài ra, sắc lệnh những năm 1633, 1634 và 1637 còn cấm hoàn toàn tôn giáo ngoại bang trên những đảo Nhật bản.
Đến mức này, Công giáo Nhật bản bắt đầu tổ chức trở lại cho một cuộc kháng cự bạo lực và nó xãy ra vào mùa đông năm 1637 ở Shimbara và đảo kế cận Amakusa.Những khu vực này đã từng trở thành vùng toàn tòng công giáo qua phần lớn là cải đạo tự nguyện và một số là bắt buộc bằng bạo lực. Được lãnh đạo bởi các giáo sỹ phương Tây, những cộng đồng Công giáo này bắt đầu tổ chức vũ trang theo mô hình quân đội để chống lại triều đình. Chính quyền Nhật bản lo ngại rằng những cộng đồng công giáo này có thể bị lợi dụng bởi các chính phủ công giáo phương Tây để chinh phục Nhật bản. Những giáo sỹ dòng Tên chuẩn bị cho một vụ bạo loạn bằng cách thành lập một lực lượng quân đội gồm 30,000 con chiên Nhật mang theo biểu tượng Giêsu, Maria và St. Ignatius. Đội quân này diễu hành chống lại đại diện chính quyền, tham gia những trận chiến đẫm máu dọc theo mũi đất Shimbara gần vịnh Nagasaki, giết chết thống đốc của Shimbara và đồn trú trong pháo đài kiêng cố đẩy lùi những đợt pháo kích từ tàu chiến của chính quyền.
Sau đó chính quyền đã liên lạc với Tin Lành Hà Lan hỏi mượn tàu chiến lớn có thể mang hỏa lực hạng nặng để bắn phá pháo đài công giáo. Người Hà lan đồng ý và Nhật bản đã có thể oanh tạc pháo đài cho đến khi nó bị phá hủy hoàn toàn và tất cả con chiên đều bị tàn sát. Kết quả tức thời của cuộc bình loạn Công giáo được Nhật bản thể hiện bằng "Sắc Lệnh Bế Quan Tỏa Cảng" (the Exclusion Edict) năm 1639:
"TRONG TƯƠNG LAI CHO ĐẾN KHI MẶT TRỜI CÒN CHIẾU SÁNG THẾ GIỚI NÀY, KHÔNG MỘT TÀU BÈ NÀO ĐƯỢC DONG BUỒM ĐẾN NHẬT BẢN, THẬM CHÍ CHO DÙ ĐÓNG VAI TRÒ LÀM ĐẠI SỨ . THÔNG CÁO NÀY KHÔNG BAO GIỜ BỊ HỦY BỎ CHO DÙ PHẢI ĐÁNH ĐỔI BẰNG CÁI CHẾT"
(For the future, let none, so long as the Sun illuminates the World, presume to sail to Japan, not even in the quality of ambassadors, and this declaration is never to be revoked, on pain of death.).
Sắc lệnh này áp dụng cho tất cả những người phương Tây với một ngoại lệ là người Hà lan, vì họ đã giúp Nhật bản đánh bại cuộc nỗi loạn của Công giáo. Tuy nhiên, họ cũng bị hạn chế đi vào Nhật bản bởi vì họ cũng được gọi là Kitô hữu vì theo Tin Lành. Đối với người Nhật, bất cứ điều gì nối kết với Kitô đều bị nghi ngờ là gian dối, cực đoan, và xâm lược.Người Hà lan phải di chuyển Tổng hành dinh của họ về một hòn đảo nhỏ ở Deshima trong vịnh Nagasaki. Họ sống gần như những tù nhân và chỉ được phép đặt chân vào đất liền một lần trong năm. Tuy nhiên, những hạn chế lớn nhất lại liên quan đến những nghi thức tôn giáo Kitô. Người Hà lan không được phép cầu nguyện ở nơi có người, thậm chí chỉ có sự hiện diện của một người Nhật. Người Nhật đã trở nên quá nhạy cảm đối với bất cứ thứ gì gợi nhớ lại Kitô giáo đến nỗi người Hà lan bị cấm sử dụng dương lịch trong giấy tờ kinh doanh bởi vì nó gợi nhớ tới Kitô. Ngày nay, Kitô giáo trong mắt họ không gì khác hơn là dụng cụ tra tấn của phương Tây để đạt được sự thống trị về quân sự và chính trị. Khi người Hà lan ký hiệp ước thương mại với Nhật bản gồm 7 điều thì có đến 4 điều liên quan đến Kitô: (xem sách "The Far East since 1500", Paul E. Eckel; Harrap, 1948):
1.Buôn bán giữa Nhật và Hà lan sẽ tồn tại mãi mãi
2.Tàu Hà lan không được phép chở con chiên của bất kỳ quốc gia nào hoặc chuyên chở thư tín được viết bởi con chiên
3.Người Hà lan nên báo cáo cho chính quyền Nhật bất cứ thông tin nào về truyền đạo Kitô ở những lãnh địa ngoài Nhật bản mà có thể liên quan
4.Nếu người Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha chinh phục những quốc gia qua con đường tôn giáo, những thông tin như vậy nên đước báo cáo với chính quyền ở Nagasaki.
(1. Commerce between Japan and Holland was to be perpetual.
2. No Dutch ship should carry a Christian of any nationality or convey letters written by Christians..
3. The Dutch should convey to the Japanese governor any information about the spreading of Christianity in foreign lands that might be of interest.
4. If the Spaniards or Portuguese seized countries by means of religious machination, such information should be given to the Governor of Nagasaki)
Ngoài những điều này, tất cả những sách thuộc về tàu Hà lan, đặc biệt những sách về đề tài tôn giáo phải đọc bọc kỹ và trình cho hải quan Nhật lúc cập bến. Người Hà lan đầu tiên được phép có 7 tàu được vào Nhật mỗi năm, sau đó bị hạn chế chỉ còn một tàu mỗi năm. Nghi ngờ về tính ngang ngạnh và xảo quyệt của con chiên đã trở nên quá sâu sắc đến nỗi mà họ thậm chí sửa đổi những sắc lệnh đầu tiên theo hướng ngày càng tăng nặng. Bất cứ tàu bè nào chứa con chiên tìm cách tỵ nạn tại một hải cảng của Nhật ngay cả bị đắm tàu ngoài khơi Nhật bản đều bị cho là tội phạm.
Nhật bản trở thành một mãnh đất "bế quan tỏa cảng" kín mít đối với thế giới bên ngoài kéo dài đến 250 năm cho đến năm 1853, Phó đề đốc hải quân Matthew Perry dẫn đầu bốn tàu chiến thuộc hạm đội Đông Ấn Độ của Hải quân Hoa Kỳ xuất hiện ngoài khơi Uraga ở vịnh Edo, Nhật Bản trình quốc thư yêu cầu Nhật bản mở của trở lại. Lúc này sắc lệnh mới được bãi bỏ.


.
Xin xem bài gốc ở link này.