Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2020

SÁCH KINH CÔNG GIÁO VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ (2)


Gia tộc tổ tiên bên nội tôi ở làng Ninh Cường, tỉnh Nam Định, theo đạo Công Giáo từ đầu thế kỷ 16 nên cha tôi theo truyền thống lâu đời của gia tộc là mỗi khi có con cháu sinh ra được 3 ngày thì đem đến nhà thờ để cha xứ làm phép bí tích rửa tội. Giáo dân có thói quen thường hay đưa con đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật sau khi sinh đứa bé nên thời hạn 3 ngày nói trên có thể du di sớm hơn hoặc trễ hơn nhưng ít khi nào để lâu quá một tuần. Nay tôi nhận thấy đây là một hành vi độc đoán của người lớn đối với trẻ thơ vì việc quyết định theo đạo hay không là điều hệ trọng cần phải đợi đến lúc con người trưởng thành mới đủ trí óc phán đoán để có thể tự quyết định vận mệnh của mình. Không một ai dù là cha mẹ có thể tự ý quyết định thay mà không đếm xỉa tới sự ưng thuận của đương sự được. Các tôn giáo luôn lớn tiếng kêu gọi tự do tín ngưỡng trong khi hành vi cưỡng bách trẻ thơ chịu phép rửa tội, thực chất là nghi lễ nhập đạo, là một hành vi tước đoạt tự do tín ngưỡng thô bạo nhất. Việc cưỡng bức trẻ thơ chịu các phép bí tích, nhất là bí tích rửa tội nhập đạo, phải được coi là một hành vi áp đặt cái thòng lọng tôn giáo vào cổ những người ngây thơ vô tội. Chúng tôi kêu gọi sự can thiệp của Luật Pháp Quốc Gia để ngăn chận sự vi phạm quyền tự do căn bản (tự do tín ngưỡng) của những con người chưa có khả năng phán đoán và khả năng tự vệ. Luật pháp phải đặc biệt chú ý đến Công Giáo La Mã vì đạo này là một chế độ độc tài ngụy trang tôn giáo (a dictatorship masquering a religion – Joanne Meehl).

Lúc tôi lên 7 tuổi, cha tôi bắt học thuộc lòng phần lớn cuốn Toàn Niên Kinh Nguyện của địa phận Bùi Chu cùng mấy tập thơ lục bát như "Thập Điều Tứ Chung" của Giám mục Hồ Ngọc Cẩn và "Hiếu tự ca" của Cụ Sáu Trần Lục. Tất cả để chuẩn bị tâm tư cho tôi chịu các phép bí tích xưng tội và rước lễ lần đầu. Ngày nay bí tích Giải tội được gọi là "Bí tích Hòa giải". Nhưng vào lúc tôi mới 7 tuổi đầu, tôi với Chúa chưa hề có một xích mích nào với nhau tại sao lại bắt tôi phải hòa giải với Chúa ? Mấy năm sau tôi được chịu phép bí tích Thêm Sức do Giám mục địa phận ban cho vì cha tôi muốn tôi được tăng cường thêm đức tin vững vàng để sau này về già tới chết đức tin của tôi vẫn vững như đồng không gì lay chuyển nổi ! Vào năm 27 tuổi (1964), tôi chẳng may bị bệnh thương hàn trầm trọng gần chết. Khi thấy bác sĩ Bệnh viện Đô Thành chuẩn bị cho đem tôi xuống nhà xác, có lẽ cha tôi lo cho tôi sắp bị quỉ Satan đến bắt nên đã khẩn thiết mời một linh mục đến nhà thương làm phép Xức Dầu Thánh cho tôi. Cả gia đình khóc thương tôi và chuẩn bị sẵn sàng tiễn tôi về Thiên đàng để tôi được xem thấy mặt Đức Chúa Trời Jehovah sáng láng vui vẻ vô cùng, đồng thời linh hồn tôi sẽ được hợp làm một cùng thánh tổ phụ Abraham và vua thành David. Đối với tôi, tất cả những nhân vật này đều là những kẻ bất lương và tôi không hề muốn gặp họ.

Nhưng sau đó tôi may mắn thoát chết và sức khỏe của tôi dần dần hồi phục nhờ bác sĩ tận tình. Chỉ mấy tháng sau tôi được gọi động viên vào trường Thủ Đức và trở thành Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1969, cha mẹ tôi thu xếp cho tôi được đẹp duyên cùng cô Tê-rê-xa thuộc ca đoàn nhà thờ Huyện Sĩ. Thế là tôi đã có vợ đạo dòng đúng theo ý muốn của cha mẹ tôi. Vợ tôi nguyên là học sinh Trưng-Vương đã từng đóng vai Trưng Nhị cầm kiếm cưỡi ngựa tại Nhà Hát Lớn Sài Gòn trong lễ tưởng niệm Hai Bà năm 1967. Đạo Công Giáo có cả thảy 7 phép bí tích thì tới nay tính ra tôi đã chịu tới 6 phép, chỉ thiếu một phép bí tích duy nhất còn lại là phép Truyền Chức Thánh mà thôi ! Mọi người Công Giáo chỉ có thể chịu 6 phép bí tích là mức tối đa tuyệt đối. Mấy ông tu sĩ từ cấp chóp bu là giáo hoàng, qua các cấp đại thần như ông hồng y, giám mục, cấp lưng chừng nửa ông nửa thằng là "đức ông", cho nên cấp manager (quản lý) là linh mục cũng chỉ có thể chịu tới 6 phép là cùng. Các vị này một khi đã lỡ chịu phép Truyền Chức Thánh rồi thì phép bí tích Hôn Phối dù đã được "thánh hóa" cũng trở thành một phép bí tích tội lỗi đối với họ !

Sự đời thật lắm chuyện bất ngờ. Biến cố 30 tháng Tư 1975 đã chấm dứt 10 năm quân ngũ của tôi để mở đầu cho gần 10 năm tù trong các trại cải tạo ở Bắc và Nam Việt Nam. Những năm tù đó là cơ hội hoán chuyển tâm hồn tôi từ một tín đồ Công Giáo thành một kẻ vô thần. Ấn tượng hãi hùng nhất đối với bọn tù chúng tôi là những cơn đói dở sống dở chết triền miên. Cao điểm của sự tàn tạ là vào khoảng các năm 1978-1979 tại trại tù Yên Báy. Bọn tù chúng tôi xếp hàng dọc leo lên núi làm rẫy sáng đi tối về như những bóng ma. Những người Tày ở vùng này thường gọi chúng tôi là "bọn đầu lâu chân tay". Một hôm bọn tôi tình cớ gặp mấy cô gái Tày lên rừng kiếm củi, một người bạn tù chỉ tay vào tôi và nói đùa với mấy cô gái : "Có cô nào muốn lấy thằng này không để tôi gả cho!". Một cô gái vui vẻ trả lời : "Lấy về để nấu cao à ?". Thiên Chúa thân thương của tôi bấy lâu đã bỏ tôi và chỉ để lại trong tôi một sự trống vắng hoang tàn tuyệt vọng. Suốt bao nhiêu những ngày tháng ấy tôi không hề đọc kinh cầu xin Chúa ngự trong linh hồn mà chỉ cầu những hạt cơm, hạt ngô, củ khoai hay vài miếng sắn lát ngự trong bao tử lép xẹp khốn khổ của mình ! Những thứ vốn tầm thường ấy đã trở thành thiên đàng hiện thực và giá trị nhất của tôi.

Nhưng sau khi ra tù về nhà, tôi lại chìm đắm trong một thế giới tâm linh mới. Người em trai của tôi đã thu thập từ lâu khoảng trên hai chục cuốn sách của Hội Thông-Thiên-Học và trao trọn gói cho tôi đọc. Tôi đã say mê đọc những sách này trong khoảng thời gian từ 1985 đến 1989. Điều làm tôi ngạc nhiên với chính mình là cuối cùng tôi đã không theo Thông Thiên Học vì tôi không thể chấp nhận những điều huyền họăc của Tổng giám mục Anh Giáo Leadbeater là một trong những sáng lập Thông-Thiên-Học. Nhưng chính nhờ Thông-Thiên-học, tôi đã tìm lại được niềm tin mãnh liệt nơi Thượng Đế và đồng thời tôi hết lòng tâm phục Đức Thích Ca. Từ đó Thiên-Nhãn Thượng-Đế ngự trên đầu tôi và Đức Thích Ca ngự trong tim tôi. Trước đó tôi chưa bao giờ vào chùa lạy Phật, không hề thuộc một kinh Phật nào và không hề quen biết một tu sĩ nào của đạo Phật nhưng tôi không cảm thấy xa lạ với Đức Phật. Trái lại, tôi cảm thấy hình như Ngài đã ở sẵn trong tim tôi từ thuở nào ! Cả đời tôi chưa bao giờ đến Tây Ninh, chưa bao giờ đọc sách và cũng chưa bao giờ bước chân vào một thánh thất Cao Đài. Nhưng tôi có cảm tưởng niềm tin của tôi rất gần gũi với đạo Cao Đài. Tôi thật sự không hiểu tại sao và không thể giải thích.

Tôi xin nhấn mạnh là tôi chỉ thuật lại trung thực những gì đã xảy đến cho tôi, có sao nói vậy, tôi không hề có ý thuyết phục bất cứ ai về những điều tôi tin. Tôi tuyệt đối không đặt vấn đề tranh luận có hay không có Thương Đế. Tôi cũng không đặt vấn đề chúng ta nên hiểu thế nào về Đức Phật A-Di-Đà. Các vấn đề này hoàn toàn vượt quá sự hiểu biết của tôi và hoàn toàn tùy thuộc vào sự cảm nhận riêng của mỗi người chúng ta.

Từ năm 1989 đến nay, tôi luôn luôn thành khẩn niệm Phật "Nam Mô A-Di-Đà Phật" theo ý nghĩa Thông Thiên Học và tôi đã tìm được niềm an vui trong đời sống tinh thần. Theo Thông Thiên Học thì Đức Thích-Ca Mâu-Ni chỉ dạy chúng ta niệm "Nam Mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật". Thông Thiên Học giải thích nguyên ngữ chữ Phạn : "Nam Mô’ là Vinh Danh, Sáng Danh,... "Phật" là Giác Giả tức Tâm linh Giác ngộ, Trí tuệ thông minh hiểu biết vô lượng. "A-Di-Đà" là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ, thiêng liêng vô cùng, vô thủy vô chung. Tất cả mọi người chúng ta đều có Phật tính. Nếu chúng ta ra sức tu tâm thiện hành hướng thượng thì mọi người đều thành Phật cả. Cho nên Đức Thích Ca đã xác nhận rằng Ngài là "Phật đã thành" và mọi chúng sinh đều là những vị "Phật sẽ thành". Mọi chúng sinh đều bình đẳng, chỉ khác nhau ở trình độ tiến hóa về tâm linh mà thôi.

Theo thiển ý của tôi, chân lý không ở đâu xa mà ở trong sự đơn sơ mộc mạc và giản dị nhất. Người ta càng giải thích lời dạy của các giáo chủ một cách phức tạp cao siêu bao nhiêu thì càng làm cho người nghe thêm rối trí và hiểu sai rồi đi lạc lung tung chẳng còn biết đâu mà mò. Cứ theo lời dạy hết sức đơn giản của Đức Phật là hãy khởi đầu với lòng từ bi thật sự, sau đó ta sẽ có tất cả mọi thứ. Ngắn gọn chỉ có vậy thôi, cãi nhau dông dài vô ích! TỪ là lòng ao ước làm cho người khác được an vui, không muốn ai bị ngược đã bất công tàn nhẫn, thấy ai bị đau khổ thì động lòng trắc ẩn xót xa. Lòng yêu người cũng chính là lòng yêu sự công bằng vậy. BI là tình thương rải ra khắp chúng sinh. Phật dạy : Từ Bi là nước tưới cây bồ đề làm cho cây nở ra hoa trái trí huệ. Trí huệ là sự hiểu biết mà ngôn ngữ loài người không thể diễn tả được. Hãy theo con đường Phật dạy khởi đi từ BI sẽ có TRÍ. Sau khi đã có đủ BI và TRÍ rồi thì tự nhiên sẽ có DŨNG, nghĩa là ta sẽ trở thành can đảm phi thường (vô úy). Sự can đảm phát sinh từ lòng thương người sẽ đến với ta một cách tự nhiên mà không cần phải tập luyện gì hết.

Những điều trên đây xin hãy coi như công thức thứ nhất. Công thức thứ hai là Chân Thiện Mỹ. Nghĩa là hãy thiết tha yêu mến sự thật. Hãy vững tin rằng dù cho sự thật bị đàn áp chà đạp tới đâu, cuối cùng Sự Thật cũng ngóc đầu dậy và chiến thắng vinh quang. Đó là luật của Thiên nhiên mà không có một sức mạnh tội ác nào có thể cưỡng lại được. Sự thật là Chân Lý và Chân Lý cao hơn mọi tôn giáo. Nói cách khác, không một tôn giáo nào cao hơn Sự Thật. Lòng thiết tha yêu mến sự thật là cội nguồn của sự Thánh Thiện. Vì vậy phải có Lòng Chân Thật trước hết rồi sau mới có thể có cái tâm thiện lành được. Rõ ràng phải có CHÂN mới có THIỆN và cuối cùng tự nhiên ai cũng thấy đó là sự tốt đẹp vô cùng (MỸ).

Hai công thức đó của Đức Thích Ca quyện chặt vào nhau thành một. Nói cách khác, ta chỉ cần trau dồi lòng từ bi và tha thiết yêu sự thật là ta sẽ có nguồn sáng tâm linh và lòng can đảm để giải quyết tất cả mọi sự trên đời này. Đó chính là Đạo Làm Người (hoặc Đạo Nhân) đã có sẵn trong tâm thức của truyền thống văn hóa Việt Nam. Tâm thức của tổ tiên Việt Nam chúng ta từ ngàn xưa đã đạt tới tuyệt đỉnh của sự thánh thiện là lòng từ bi vô-vị-lợi, đúng như tự điển Anh Ngữ đã định nghĩa: "SAINT; ABSOLUTLY UNSELFISH". Loại thánh nhân được hiểu theo nghĩa này không cần được Vatican tấn phong và cũng không nên để cho Vatican tấn phong họ vì Vatican không đủ trình độ để vương tới loại thánh này. Vả lại, từ xưa đến nay, Vatican chỉ phong thánh cho những kẻ đã chết từ lâu nên Công Giáo La Mã chỉ có "những thánh của sự chết" chứ không bao giờ có "thánh của sự sống". Công Giáo cũng không có "thánh sống" nhưng lại có quá nhiều "quỉ sống". Các thánh của Vatican cần phải được tra xét lại, nhất là loại thánh được gọi là tử đạo Việt Nam. Đại đa số các "thánh tử đạo" đều là những tên Việt gian, chỉ vì ngu ngốc nên đã làm tay sai cho giặc và chết uổng mạng cho tà đạo khốn nạn nhất trong lịch sử loài người.

Tổ tiên từ ngàn năm xưa đã truyền dạy chúng ta chân lý quý báu về sự thánh thiện bằng những câu tục ngữ đơn sơ : "Thương người như thể thương thân" và dù cho khác nhau về chủng tộc hay văn hóa cũng vẫn thương như thường : "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn". Đó chính là sự thánh thiện không cần tôn giáo của tổ tiên Việt Nam chúng ta. Cái thói "Bụt chùa nhà không thiêng" đã làm cho chúng ta coi thường những lời dạy "bình dân" đó của tổ tiên nên chúng ta đã đánh mất cái kho tàng văn hóa nhân bản mà ngày nay những tim óc vĩ đại của Tây Phương đã nhận ra nó trong Chủ Nghĩa Nhân đạo Thế Tục (Secular Humanism) của họ. Hiến Pháp Hoa Kỳ đã và đang theo đuổi mục tiêu thực hiện chủ nghĩa nhân bản thế tục này. Một trong những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa nhân đạo thế tục có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với Hiến pháp Hoa Kỳ là tác phẩm "Common Sense" của Thomas Paine, bestselling book năm 1776. Chủ nghĩa Nhân Đạo Thế Tục được khẳng định lại trong Tu Chính Án I năm 1791 và Tu Chính Án XIV năm 1870. Tối cao PhápViện Hoa Kỳ cũng đã có mấy dịp khẳng định tinh thần Hiến Pháp là : Chính phủ tôn trọng các nhân quyền và dân quyền nhưng phải có mục tiêu thế tục hoặc vô-tôn-giáo. (Government policy must have a secular or non-religious purpose – American Government, Politics and Political Culture by William Lyons. West Pub. Co. 1995, p. 110). Đỉnh cao trí tuệ và tâm linh Tây Phương đã gặp gỡ tinh-thần nhân-bản vô-tôn-giáo của văn hóa bình dân cổ đại Việt Nam. Nền văn hóa tổng hợp Đông Tây mang trọn nhân tính này sẽ là ngọn hải đăng dẫn dắt nhân loại đi vào thiên niên kỷ thứ ba. Nền văn hóa này sẽ sản sinh ra những thánh sống phục vụ cho hạnh phúc của nhân loại để mở đầu cho kỷ nguyên của những thánh sống thật. Các thánh đã chết không thể làm những điều ích lợi tích cực cho nhân loại được nữa ngoài các tác dụng của những tấm gương sáng (nếu có) để chúng ta chiêm ngưỡng mà thôi. Dưới ánh sáng dịu dàng của Đức Phật từ bi và với tâm thức thánh thiện của tổ tiên xa xưa còn sót lại, tôi đã rà xét lại niềm tin tôn giáo lâu đời của gia tộc mình. Nhận thức đầu tiên của tôi là: Chánh Đạo phải là đạo thương người và cứu người. Bất cứ một tôn giáo nào bề ngoài tuy có vẻ văn minh hào nhoáng hoặc đội lốt bác ái giả dối nhưng trong thực tế lại là đạo giết người nhiều nhất thì cái đạo đó phải là tà đạo chứ không thể khác được!

Núp sau hình ảnh nhân ái của ít người nổi tiếng như Mother Theresa là cả một dãy núi tội ác sát nhân của giáo hội Công Giáo trong 17 thế kỷ qua. Từ khi bạo chúa La Mã Constantine lập đạo Công Giáo năm 325 tại Nicaea đến nay, Công Giáo đã giết hại trên hai trăm triệu người nên Công Giáo không thể tồn tại như một tôn giáo trên thế giới. Nó phải được coi là một tổ chức tội phạm vô tiền khoáng hậu và phải bị đào thải khỏi nền văn minh nhân bản của loài người. Với lương tâm và lương tri bình thường, chúng ta không thể hình dung được một tôn giáo mà không có đức từ bi. Tôn giáo chiếm giải vô địch giết người như Công Giáo La Mã là tôn giáo không có đức BI thì không thể có TRÍ. Cho nên tín đồ của nó chủ yếu gồm những kẻ thiếu trí tuệ.

Có hai loại người trong hàng ngũ những kẻ thiếu trí là "những kẻ thất học" gồm đại đa số giáo dân và trí xảo quyệt là hàng ngũ tu sĩ lãnh đạo cao cấp. Chính những kẻ xảo quyệt này mới thực sự là đại họa cho nhân loại vì họ là những tên chánh phạm của các loại tội ác của Công Giáo La Mã từ xưa đến nay ! Ai có thắc mắc gì về những điều này xin hãy tìm đọc "VATICAN THÚ TỘI VÀ XIN LỖI" của 6 tác giả, 312 trang, Giao Điểm xuất bản năm 2000.

Tôi rất đau buồn nhận ra đạo Công Giáo mà gia tộc tôi đã theo từ năm 1553 tới nay chính là cái tà đạo oan nghiệt đó. Tôi xin cảm tạ Ơn Trên đã soi sáng và giải cứu tôi thoát khỏi ngục tù tư tưởng của tà đạo Ngụy Thiên-Chúa này. Tất cả những gì tôi kể ra đây đều là những gì đã thật sự xảy ra cho tôi, chuyện ra sao thì tôi xin kể lại như vậy mà thôi. Sở dĩ tôi phải nói là được Ơn Trên giải cứu vì hầu như mọi người do một cơ duyên nào đó mà bị vướng vào cái tà đạo ác ôn này thì chẳng khác nào một con thú bị mắc bẩy, rất khó có thể tự vùng vẫy thoát ra. Đúng như giáo sư Trần Chung Ngọc đã viết trong tạp chí Giao Điểm số 38 Mùa Thu năm 2000 (trang 12) : "Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, con người một khi cho chân vào cái rọ Gia Tô rồi thì khó rút ra lắm, vì chính sách nhồi sọ của Gia Tô Giáo rất tinh vi với đầy đủ phương tiện".

Đó chẳng phải là tình trạng khó khăn của thân phận giáo dân ở các nước kém mở mang như Việt nam mà ngay những giáo dân Công Giáo tại nước Mỹ nổi tiếng tự do và văn minh nhất thế giới này cũng phải công nhận là Đạo Công Giáo có một "cái tròng tâm lý" đặc biệt mà nữ học giả Joanne H. Meehl gọi là "cái thòng lọng Công Giáo" (the Catholic Loop). Trong tác phẩm "Người Công Giáo tỉnh ngộ" (The Recovering Catholic, 300 trang, Promethus Books USA 1995). Tác giả cho biết hiện nay có rất nhiều tín đồ Công Giáo Mỹ bị khủng hoảng đức tin trầm trọng nhưng vẫn không thoát ra khỏi "cái thòng lọng Công Giáo" đó ! Tôi xin trích dẫn một số ý kiến tiêu biểu trong cuốn sách độc đáo này để chúng ta biết sơ qua về trình độ thức tỉnh tâm linh của những người trí thức Công Giáo Mỹ hiện nay ra sao :

- Công Giáo thực chất là một chế độ độc tài tự xưng là một tôn giáo (Catholicism is a dictatorship claiming to be a religion). Thiên-Chúa Ki-tô-giáo là một gã đàn ông toàn năng (Christian God is the Male Almighty). Mỗi khi nói tới Thiên Chúa, người ta luôn luôn sử dụng các từ ngữ thuộc giống đực (gramatically masculin as He, His, Father, Son). Đối với phụ nữ Công Giáo Mỹ thì quyền lực của giới tu sĩ đàn ông chứ không phải quyền lực của Chúa vẫn luôn luôn tồn tại. Thiên Chúa chỉ là tấm màn che cho sự thống trị của đàn ông (The power of man, not God, still exists. God is merely a backdrop to man’s ruling). Hồi Giáo và Công Giáo đã "thánh chiến" với nhau trong nhiều thế kỷ làm chết mấy chục triệu sinh mạng và ngày nay họ vẫn đang giết nhau ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng họ lại hết sức đoàn kết với nhau trong chủ nghĩa thù ghét phụ nữ (They united in their misogyny). Cả hai tôn giáo này tuyệt đối không cho phụ nữ giữ các chức vụ tư tế (priests). Tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, họ lớn tiếng chống phá thai mà họ gọi là đấu tranh cho quyền sống, thực chất là họ đấu tranh cho sự sống còn của tôn giáo họ (Struggle for the right to life is actually a struggle for the survival of their religions). Thiên-Chúa-Đực-Rựa của họ còn lắm điều hơn đàn bà (Their Male Almighty is more talkative than women) các lời bậy bạ của họ đều được gán cho là lời của Chúa (words of God). Tác giả dành 4 trang kêu gọi những người Công Giáo Mỹ bỏ đạo. Theo tác giả, bỏ đạo là từ chối làm kiếp con bò - Refusing to be a cow – from p.116 to p.119).

- Ngoài những ý kiến của tác giả còn nhiều ý kiến táo bạo của nhiều tín đồ Công Giáo khác do tác giả phỏng vấn. Chẳng hạn cô Victoria phát biểu : Cái điều làm cho cô tức giận nhất là cái ý nghĩ bệnh hoạn cho rằng Jesus chết cho tội lỗi của cô và của mọi người. Cô nói "Bởi vì tôi và mọi người tôi biết đều không làm cái điều bệnh hoạn chứng minh cho cái việc tồi tệ của gã đàn ông bị đóng đinh trên thập ác và chảy máu đến chết đó. Nếu hắn cảm thấy cần phải chết vì tôi thì, xin lỗi, đó là do tự ý hắn muốn vác lấy gánh nặng một cách sai lầm kinh khủng. Tôi không thèm làm một việc tồi tệ đến như vậy". (Victoria says the thing that makes her the angriest is "the sick idea that Jesus died for my sins or anyone'’sins. Because neither I nor anyone I know has done anything that bad that justifies this sick thing of this man being nailed to a cross and bleeding to death. If he feels he has to do that for me, I’m sorry, that’s a terribly misplace burden. I didn’t do anything that bad !", p.131).

- Cô Linda ở Texas viết gởi cho tác giả một bài tựa đề "Công ty Công Giáo La Mã" với nội dung "Công Giáo La Mã là tôn giáo hay tiệm buôn ? Cái thật sự làm tôi băng khoăn là tài sản kếch sù của giáo hội. Họ có quá nhiều vàng và liên hệ mật thiết với Mafia. Họ dạy người ta về đức nghèo khó trong khi họ có trụ sở ở thị trường chứng khoán New York. Họ dạy lòng yêu thương nhưng lại rất khinh bỉ những người ngoài Công Giáo. Họ dạy sự bình đẳng nhưng coi phụ nữ như đất cát. Tôi hết chịu đựng nỗi sự đạo đức giả của họ. Giáo hội đầy dẫy những thứ đó. Hãy nhìn về nước Tây Ban Nha mà xem, giáo hội giàu có được vây quanh bởi những kẻ nghèo đói. Tục ngữ xưa có câu "Giàu nứt đố đổ vách như giáo hoàng". (Hypocrisy – is Roman Catholicism a religion or a business ? Linda of Texas refers to it as "Roman Catholicism, Inc.,"... What really annoys me is the church’s vast wealth. They own too much gold... its Mafia connections.. They preach poverty while they have a seat on the New York Stock Exchange. They preach love but they look down upon anyone that’s not Catholic. They preach equality but treat woman like dirt. I can’t stand hypocrisy, the church is full of it! Look at Spain, where the richness of the church is surrounded by the poverty... In the old country people saying "he’s as rich as the popes", p.132-133).

Còn nhiều điều khác rất hấp dẫn táo bạo nhưng rất tiếc là khuôn khổ bài viết này không đủ sức chứa. Mong quý vị độc giả sẽ tìm đọc lấy. Ở đây tôi chỉ xin đề cập đến Cái Thòng Lọng Công Giáo (The Catholic Loop) mà thôi.

Theo kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy "cái thòng lọng Công Giáo" này đã được hình thành chủ yếu do sự đọc kinh hằng ngày từ nhỏ tới lớn khiến cho những tín điều dù vô lý đến mấy rồi cũng trở trành chân lý do sự lập đi lập lại nhiều lần và do sự tự kỷ ám thị. Qua những lời kinh cầu nguyện hằng ngày, những tín điều nhảm nhí ngớ ngẩn dần dần thấm sâu vào cõi vô thức khiến con người chấp nhận chúng như hiện tượng "phản xạ có điều kiện" trong khoa học tâm lý và hậu quả là người ta không còn muốn đem lý trí ra để kiểm chứng nữa ! Ngoài cái tâm lý đó ra còn có một yếu tố khác rất nặng nề, nó chính là sợi dây vô hình ràng buộc con người với tôn giáo chặt chẽ không thể tưởng được ! Đó là tình cảm gia đình và gia tộc gắn bó trong niềm tin Công Giáo. Phải là những người đạo gốc lâu đời mới có thể cảm thông được điều này. Cụ thể là trường hợp cha mẹ tôi. Tôi biết cha mẹ tôi hết lòng yêu thương tôi và sẵn sàng hy sinh mọi thứ cho tôi, nhưng nếu bị đặt vào trường hợp bắt buộc phải chọn lựa một là tôi phải chết hai là tôi phải bỏ đạo thì dứt khoát cha mẹ tôi muốn tôi chết chứ không muốn tôi "bỏ đạo". Xin hãy khoan nói tới chuyện "dám chống đạo", người Công Giáo thường gọi là "dám phản nghịch cùng Chúa", là điều kinh thiên động địa vượt ngoài sức tưởng tượng của cha mẹ tôi.

Đến khi lớn lên có gia đình riêng, vợ con tôi đối xử với tôi cũng y hệt như vậy. Ở nước Mỹ này ai cũng có quyền tự do tư tưởng là một quyền hiến định đàng hoàng, vậy mà tôi không hề có cái quyền này ở ngay trong gia đình mình ! Thật là một điều trái khuấy kỳ quặc ! Vào tháng tư năm 1996, nhân dịp đọc bài "Rethinking of the Resurrection of Christ" đăng trên tờ Newsweek, tôi lén vợ con lược dịch thành bài "Suy nghĩ lại về sự phục sinh của Chúa Ki-tô" và gửi đăng trên tuần san ĐẸP (số 239 ngày 13.4.1996). Vì không muốn ký tên thật, tôi chẳng cần suy nghĩ và chỉ trong một giây đồng hồ tôi đã chọn xong cho mình một "bút hiệu" là Charlie Nguyễn. Sau vụ này, mọi chuyện êm ru ! Đến tháng 8/1996, tôi đến thư viện mượn mấy cuốn sách về nhà đọc chơi, trong số đó có cuốn "The Jesus Conspiracy" (âm mưu của Jesus) của hai tác giả Đức nhưng đều tốt nghiệp Đại học Mỹ là Holger Kersten và Elma R. Gruber. Không ngờ các tác giả viết sách quá hay khiến tôi cầm lòng không được nên đã táy máy tóm dịch thành bài "Tấm Vải Liệm Xác Chúa" và gửi đăng trên tuần san ĐẸP số 251 ngày 6.7.1996. Ông bà chủ báo vốn chẳng quen biết gì với tôi nhưng thấy bài viết trước đây của tôi đã được đăng báo không gây chuyện rắc rối gì nên hai vị này đã thản nhiên cho đăng tiếp.

Không ngờ bài viết lần này đã gây một sự phẫn nộ lớn trong giới người Việt Công Giáo ở Houston. "Bản Tin Mục Vụ" phát tại các nhà thờ và mấy tờ báo thân Công Giáo ở Houston viết bài chửi tôi thậm tệ với nội dung hàm chứa một sự hăm dọa. Giáo dân cuồng tín ở mấy xứ đạo tại Houston hăm đánh ông bà chủ nhiệm chủ bút báo Đẹp, hô hào các thương gia Công Giáo rút lui không đăng quảng cáo trên báo và chúng còn hăm đốt tòa báo Đẹp nữa, làm cho ông bà chủ báo mất ăn mất ngủ mấy tuần lễ liền khiến cho hai vị này hốc hác trông rất thảm não. Tôi không thể tưởng tượng nỗi là một bài viết cỏn con của tôi đã làm cho những kẻ cuồng tín này phẩn nộ tức tối đến như vậy ! Bài viết chỉ có mấy trang báo tóm dịch từ một cuốn sách dầy 337 trang, đã được chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Đức ra 9 thứ tiếng khác từ năm 1994. Riêng bản Anh ngữ được tái bản và phát hành đồng loạt tại Mỹ, Anh và Úc tổng cộng lên tới cả triệu bản. Tòa thánh La Mã và toàn thế giới Công Giáo, trong đó có 53 triệu tín đồ Công Giáo Mỹ là nước chủ nhà, đã đọc nó nguyên con từ lâu mà chẳng có một phản ứng nào. Vậy mà cái dúm người Việt Công Giáo ở Houston này làm rùm beng để chống lại cái bài tóm dịch quèn của tôi và đòi đốt tờ báo Đẹp để làm gì ? Phải chăng họ đã quá mù quáng nên đã có những hành động thật đáng xấu hổ. Sự phẩn nộ điên khùng của họ chỉ làm cho người Mỹ và các dân tộc khác thấy rõ được cái trình độ thấp kém cùng cực của họ vì họ chẳng hề hay biết gì về những biến chuyển lớn lao trong tư duy của nhân loại ngày nay về tôn giáo nói chung và về Công Giáo nói riêng !. Những kẻ tự xưng là "các chiến sĩ bảo vệ đức tin" mặc dầu đã may mắn sống trên đất Mỹ hơn hai chục năm qua mà đến nay họ vẫn cứ tưởng như đang sống ở Hố Nai, Xóm Mới hay Ngã Ba Ông Tạ thời Ngô tổng thống trước 1963 hoặc thời Hoàng Quỳnh làm loạn ở Saigon trong các năm 65-66 !

Trước đây tôi thực sự chưa hiểu được hết giá trị của cuộc Cách Mạng 1/11/1963 lật đổ chế độ của bạo quyền Công Giáo Ngô Đình Diệm. Nhưng nay nhờ chuyện này mà tôi mới nhận thức ra cái tà đạo ác ôn Công Giáo La Mã là một đại họa ghê gớm của dân tộc Việt Nam. Xin cám ơn vô cùng cuộc Cách Mạng 1/11/1963 ! Đó là cuộc Cách Mạng đã giải cứu đất nước thoát khỏi nạn nguy hiểm tôn giáo, trong đó nạn độc tài Công Giáo phải được kể là nguy hiểm trên hết mọi thứ độc tài ! Tôi oán giận tiền nhân của chúng ta ngày xưa đã đánh mất những cơ hội lịch sử để loại trừ cái tà đạo này ngay trong thời kỳ trứng nước của nó. Tổ tiên chúng ta đã mắc sai lầm lớn là để cho nó tồn tại và không ngừng phát triển tới ngày nay trên đất nước chúng ta. Nó đã nín thở qua sông trong những giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, qua triều Tây Sơn Cảnh Thịnh, qua các triều đại nhà Nguyễn và thời kỳ Bình Tây Sát Tả của Văn Thân để rồi ngóc đầu dậy như diều gặp gió dưới thời Pháp thuộc và suýt trở thành quốc giáo tại Miền Nam Việt Nam dưới thời của mấy anh em Việt gian họ Ngô gốc gác Công Giáo cuồng tín Quảng Bình !

Biến cố 30 tháng Tư 1975 là một cơ hội bằng vàng cho một số rất đông những người Công Giáo ồ ạt chạy ra nước ngoài làm giàu. Hơn hai chục năm qua họ đã gửi về Việt Nam những khoản tiền khổng lồ giúp các cha cố trong nước xây dựng nhà thờ và bành trướng thế lực. Nhiều Việt kiều về thăm quê hương sau 25 năm xa cách đã phải sửng sốt ngạc nhiên trước những khu nhà thờ và nhà xứ nguy nga đồ sộ mới được xây cất sau năm 1975. Giáo dân tấp nập lụa là tha thướt ra vô các thánh đường với các ca đoàn, hội đoàn và đủ hình thức sinh hoạt giáo xứ tưng bừng hoa lá. Các cha cố mặc com-lê đúng mốt tay xách Samsonite nườm nượp rủ nhau đi Âu Châu và Bắc Mỹ chủ yếu nhằm hoạt động kiếm tiền chứ chẳng có ai lo việc đạo đức hay nhân đạo thực sự. Cố đạo giàu thì cán bộ tham nhũng cũng giàu theo, đúng là "tốt đạo đẹp trời" chứ có mất mát gì đâu. Chỉ có đám giáo dân cùng đinh thì trước sau vẫn giữ vững cái khố như tượng Chúa trên thập giá mà thôi. Tượng Chúa là vật vô tri vô giác thì có cái khố hay không chẳng sao, nhưng đám giáo dân nghèo không còn cái khố để mặc, không còn hạt cơm để ăn trong khi cha cố buôn thần bán thánh trở nên giàu có huênh hoang phè phỡn thì thật là một vấn đề xã hội nghiêm trọng ! Trong khi đó thì chính quyền vẫn bị buộc tội là đàn áp tôn giáo nhưng sao từ 1975 đến nay chưa thấy xuất hiện một thánh tử đạo nào ? Ngược lại, Công Giáo vẫn phát triển trăm hoa đua nở hơn cả thời Diệm ở Nam Việt Nam. Sự việc này đã được chính nhà văn Linh Mục Công Giáo xác nhận.

Trong bài "Nghĩ Về Lễ Hội La-Vang" đăng trên tuần báo Ngày Nay ở Miền Đông Hoa Kỳ ngày 12 tháng 8 năm 1999, Linh Mục Trần Quý Thiện đã viết : "Với nhận định vô tư thẳng thắn, người ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng : từ ngày chủ thuyết Cộng Sản xuất hiện trên đất nước Việt Nam năm 1930, một tôn giáo được đảng này đặc biệt chiếu cố và tìm mọi cách tinh vi khoa học để triệt hạ là đạo Công Giáo. Nhưng tại sao lãnh tụ của họ đã chết mà Công Giáo vẫn tồn tại và phát triển hơn trước ?! Năm 1969, khi Hồ Chí Minh chết, số giáo dân chỉ trên hai triệu thì nay đã trên bảy triệu. Trãi qua một quá trình bị bách hại dã man trong 69 năm (1930-1999) tại sao các thông tín viên ngoại quốc lại viết : "Lễ hội La-vang là một cuộc biểu dương niềm tin lớn lao nhất tại Việt Nam kể từ sau ngày Cộng Sản xâm chiếm miền Nam".

Thực tế hiển nhiên là số giáo dân đã tăng gấp ba lần sau 30 năm sống dưới chế độ Cộng Sản. Điều đó không có nghĩa là Cộng Sản vì thương yêu nên lo vỗ béo cho Công Giáo. Vậy lý do nào đã khiến cho Công Giáo chẳng những không bị diệt mà còn mau lớn hơn cả Phù Đổng như vậy ? Chúng ta có thể giải thích hiện tuợng này với nhận định sau đây : Trước hết Cộng sản không thể tiêu diệt Công Giáo bằng bạo lực trong hoàn cảnh thế giới hiện nay. Bản chất Công Giáo là bóng tối nên nó chỉ có thể bị tiêu diệt bằng ánh sáng giáo dục và ánh sáng tự do dân chủ thực sự với các quyền tự do ngôn luận và tự do tư tưởng như ở Hoa Kỳ chẳng hạn. Trong khi đó sau nhiều chục năm cầm súng, ít cầm bút, nên trình độ của các cán bộ Cộng Sản "đặc trách tôn giáo vụ" còn thấp nên họ không có đủ khả năng tiêu diệt Công Giáo bằng giáo dục. Cộng Sản có cùng bản chất độc tài giống như Công Giáo và cả hai đều là những đặc sản của nền văn hóa du mục Tây phương, do đó Công sản đã không dám dùng cái thứ vũ khí hữu hiệu nhưng nguy hiểm là tự do dân chủ thật sự vì điều đó có nghĩa là "cả hai ta cùng chết" ! Đó là lý do chính yếu khiến Công Giáo vẫn tồn tại dưới chế độ Cộng Sản. Trong thực tế cả hai đã dựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển !

Nữ học giả Joanne Meehl thật hữu lý khi bà viết : "Công Giáo chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bởi sự giáo dục và đời sống kinh tế khá giả". (Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome by education and economic well-being – Sách đã dẫn, trang 288). Sự phát triển vượt bực của Công Giáo La Mã dưới chính quyền Việt Nam trong 30 năm qua đã phản chiếu cho ta thấy cái thực trạng của nền kinh tế và giáo dục ở Việt Nam. Đạo Công Giáo luôn luôn cất bước song hành với sự nghèo đói ngu dốt và tội ác cùng những tệ đoan xã hội khác nhau. Vậy con số giáo dân Công Giáo gia tăng trong chế độ Cộng Sản không phải là một dấu hiệu của sự hãnh diện mà là một hồi còi báo động về mức suy đồi nghiêm trọng của nền giáo dục, kinh tế và tham nhũng.

Một chuyện ngược đời nữa là tên đường Alexandre de Rhodes ở Saigon đã bị chính quyền Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hòa dẹp bỏ sau Cách Mạng 11/11/1963 để thay bằng tên của ông tổ chữ Nôm là Hàn Thuyên, thì nay chính quyền Việt Nam lại phục hồi tên Alexandre de Rhodes trở lại để vinh danh tên cố đạo gián điệp cướp nước này. Đây chẳng những là một quyết định sai lầm nghiêm trọng về văn hóa và lịch sử mà còn là một hành vi làm nhục quốc thể của chính quyền. Chúng tôi phản đối về việc làm hoàn toàn sai trái và nhục quốc thể này ! Trong bài viết ngắn ngủi của tôi mang tựa đề "Thánh Phanxicô Xaviê, cố đạo Đắc Lộ và chữ quốc ngữ" (đăng trong cuốn Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ, Giao Điểm xuất bản 1998, trang 160-166) tôi đã trình bày quan điểm như sau :

"Vấn đề chữ quốc ngữ, tôi thiết tưởng chúng ta không cần phải biểu lộ lòng biết ơn đối với bọn cố đạo vì bọn chúng không hề tri tình làm ơn cho dân tộc ta. Bọn chúng phát minh ra chữ quốc ngữ chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là tạo ra một phương tiện truyền đạo để gieo rắc biết bao tai ương cho đất nước ta mà thôi. Bọn cố đạo thừa sai là những kẻ địch của tổ quốc Việt Nam. Xin hãy coi chữ quốc ngữ là CHIẾN LỢI PHẨM do chúng ta tịch thu được từ tay địch. Chúng ta không cần phải quay đầu lại phía đồn địch để cám ơn đã cho chúng ta những chiến lợi phẩm đó ! Chúng ta cần phải dùng vũ khí tịch thu được của địch để trừng trị bọn địch và bè lũ tay sai của chúng là thành phần Việt gian đã tự biến mình thành những kẻ lạ trên quê hương mình... Chúng ta phải bắt chúng quì xuống tạ tội hỗn láo với tổ tiên, với Đức Phật và với hồn thiêng Tổ quốc. Chúng ta sẵn sàng tha thứ nếu chúng tỏ ra biết ăn năn hối cải. Nếu chúng vẫn tiếp tục ngoan cố láo xược, nhất định chúng ta không tha. Tội ác của bọn bán nước và cướp nước hãy còn nguyên đó !" Tôi xin chú thích thêm ở đây là khi viết những dòng chữ này tôi không có ý ám chỉ việc sử dụng vũ khí đạn dược để bắn giết đồng bào mình. Tôi chỉ tha thiết kêu gọi việc sử dụng chữ quốc ngữ như một chiến-lợi-phẩm văn hóa làm vũ khí tiêu diệt tệ nạn mê tín mà thôi – Charlie Nguyễn).

Trong tháng 9.1996, do một sự tình cờ, vợ con tôi phát giác tôi là Charlie Nguyễn, lập tức vợ con tôi lục soát khắp nhà tịch thu mọi thứ tài liệu sách báo và bản thảo viết tay của tôi cho vào bao bố đem vứt ở nơi nào đó thật xa để tôi không thể thu hồi lại được. Bình thường, bà xã tôi rất diụ hiền dễ thương nên tôi thường đùa gọi vợ là "Nữ Thánh hiền thê Tê-rê-xa của anh" ! Nhưng khi thấy tôi dám xăm mình chống lại tôn giáo của nàng (và cũng là tôn giáo của tôi thời tấm bé) thì nàng bỗng nhiên biến thành một nữ hiệp của Tòa Thánh ! Nàng chỉ huy đám con giống như một lực lượng cảnh sát mở cuộc hành quân truy lùng tài liệu Việt cộng ở Saigon hồi tết Mậu Thân ! Để tránh cho gia đình khỏi lâm vào tình trạng tan vỡ, tôi đành phải nhượng bộ bằng cách tuyên thệ trước bàn thờ Chúa là từ nay con không dám tái phạm nữa ! Sau đó tôi ngoan ngoãn cùng đi lễ với gia đình vào các ngày Chủ nhật để tỏ ra là đã "thành tâm ăn năn hối cải". Nhờ đó gia đình tôi đã tạm thời qua cơn sóng gió và trở lại tình trạng yên ổn bình thường. Đây đúng là một hình thức hòa bình theo kiểu La Mã – Pax Romana ! Nhưng thứ hòa bình này không thể bền lâu, vì như Eistein đã nói : "Peace cannot be kept by force. It can only be achieved by understanding" : Hòa bình không thể được duy trì bằng sự ép buộc. Nó chỉ có thể được thực hiện bằng sự hiểu biết lẫn nhau.

Đầu năm 1998, tại Houston bỗng nổ ra một cuộc bút chiến sôi nổi giữa một bên là báo Con Ong Texas do "một số nhà thần học tân tòng" chủ trương và bên kia là Đông Dương Thời Báo do "bổn đạo giác ngộ" Giuse Phạm Hữu Tạo chủ trương. Thoạt đầu tôi chỉ theo dõi cuộc bút chiến như một kẻ bàng quan vì thật sự tôi cũng chẳng muốn dây dưa vào cái chuyện mệt xác này. Vả lại cái chuyện cải nhau về tôn giáo xưa nay và có lẽ muôn năm vẫn luôn luôn là phức tạp nhức đầu vô cùng tận, chẳng những không ăn cái giải gì mà còn gây thêm liên lụy làm khổ vợ con. Nhưng sau đó vì thấy những bài viết của những người bênh vực Công Giáo đăng trên Con Ong Texas quá sai lầm và lố bịch khiến tôi chịu đựng hết nổi. Do đó, tôi viết bài "Tâm thư của một người Công Giáo tỉnh ngộ sau nhiều năm khủng hoảng đức tin". Vì lúc đó cái "bút hiệu" Charlie Nguyễn đã bị lộ nên lần này tôi phải chọn một "bút hiệu" khác là Nguyễn Chấn rồi gửi bài cho Đông Dương Thời Báo và vài nơi khác ngày 28.2.1998. Sau đó, đúng ngày 9 tháng 3 năm 98, không biết vợ tôi kiếm đâu ra tờ Đông Dương Thời Báo có mục nhắn tin : "Ông Nguyễn Chấn, chúng tôi đã nhận được bài viết của ông...". Vợ tôi mang về nhà làm toáng lên. Mấy mẹ con xúm vào tra vấn tôi đủ điều khiến cho gia đình tôi u ám thê thảm như có đám tang. Vợ tôi trở thành một thứ phán quan Spanish Inquisition, chỉ còn thiếu dàn hỏa mà thôi !

Cuối cùng tôi phải chọn lựa : một là chấm dứt viết bài chống tà đạo, hai là phải xách khăn gói quả mướp ra đi. Tôi dứt khoát chọn giải pháp thứ hai để bảo vệ cái quyền tự do phát biểu tư tưởng của mình đến cùng. Ngay tối hôm đó,  tôi bỏ nhà đi với một cái túi nhỏ đựng ít đồ cần thiết và ngủ đêm tại gầm cầu Freeway 59 Houston cùng với mấy bác da đen homeless bởi vì lúc đó tôi không có một xu dính túi. Đây là một kỷ niệm nhớ đời của tôi ! Từ đó, tôi sống một mình như cánh chim tự do, nay đây mai đó bất định tại mấy thành phố miền Đông Bắc Hoa Kỳ ! Tôi làm việc vừa đủ kiếm sống qua ngày để có nhiều thì giờ rảnh rang dành cho việc nghiên cứu các vấn đề tâm linh mà tôi luôn luôn cảm thấy thiếu thốn như một kẻ bộ hành khát nước trong sa mạc. Tôi kể lại những chuyện riêng tư này để quý độc giả có thể hình dung phần nào về "cái thòng lọng Công Giáo". Nếu tôi không kể những mẫu chuyện thật này, tôi tin rằng quí độc giả ngoại giáo khó có thể tưởng tượng được cái tròng mắc vào cổ người Công Giáo (mà bà Joanne Meehl gọi là The Catholic Loop) nó ra "nàm thao" và nạn nhân của nó khổ sở như "xế lào" !

Trong những lúc bình tâm ôn lại quá khứ, tôi nhận thấy các sách kinh nguyện mà tôi đã thuộc lòng từ nhỏ là những kho chứa đầy chất độc tinh thần, rất nguy hiểm cho vận mệnh dân tộc và tương lai đất nước. Với nhận thức đó, tôi không thể vì mối tình cảm riêng của mình đối với mọi người trong gia tộc và các bạn thân thiết của tôi hiện nay đang là những tín đồ Công Giáo thuần thành, nhất là trong số đó có trên mười bạn là linh mục ở rải rác khắp nơi. Đối với các bạn, tôi vẫn luôn là một người bạn như những năm tuổi thơ đầy kỷ niệm thân yêu của chúng ta. Tôi hết lòng trân trọng tình bạn chân tình mà các bạn đã dành cho tôi bấy lâu và tôi thật tình không muốn làm những mối tình thiêng liêng này bị sứt mẻ. Nhưng xin mọi người thân, kể cả vợ con cùng các anh chị em ruột thịt và các bạn của tôi vui lòng tha thứ cho tôi để giải tỏa những nỗi ám ảnh không nguôi đã đè nặng trên lương tâm tôi trong suốt 50 năm qua. Sau cùng và quan trọng hơn hết là tôi xin thành khẩn hướng về linh hồn cha tôi để tạ ơn sinh thành dưỡng dục và tình yêu thương vô bờ bến mà cha tôi đã dành cho tôi trong cuộc đời. Tôi van vái linh hồn cha tôi tha tội cho tôi vì tôi đã viết ra những điều bí mật trong quá khứ của cha tôi. Cha ơi, con chỉ hành động theo tiếng gọi không thể cưỡng lại của lương tâm mà thôi ! Cha ơi, con xin vập đầu lạy Cha, lúc nầy con yêu thương Cha hơn bao giờ hết.

Tôi cũng không vì lo sợ cho sự an toàn cá nhân mà im lặng làm ngơ. Tuổi đời tôi nay đã 64 rồi, tôi xin dâng hiến tất cả những gì còn lại của riêng tôi cho Đạo Làm Người với tất cả tấm lòng thành khẩn. Với những tâm tư ấy, tôi xin cố gắng nêu lên một số vấn đề liên quan đến các sách kinh nguyện Công Giáo với ước mong sẽ được sự góp ý xây dựng của bậc thức giả ở hải ngoại cũng như ở trong nước, nhằm mục đích góp phần bảo tồn sinh mệnh dân tộc, chấn hưng văn hoá nước nhà và hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé nào đó vào cuộc cách mạng tâm linh đang diễn ra trên thế giới hiện nay. Đây hoàn toàn là một hành vi tự phát đơn độc của một người Công Giáo đã đau khổ nhiều với những trăn trở của lương tri và chỉ vì yêu quê nhớ nguồn mà thẳng thắn nói lên ý kiến của mình trên lập trường dân tộc bình thường mà thôi. Tôi biết những bài viết của tôi trong mục đích này có thể gây khó chịu cho những người cuồng tín, nhưng xét cho cùng thì tôi cũng chỉ là người có nhiệt tâm hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hoàng John Paul II. Từ khi lên ngôi năm 1978 đến nay, Giáo hoàng John Paul II đã hàng trăm lần kêu gọi mọi tín đồ Công Giáo phải xét lại vấn đề lương tâm của giáo hội (The Church’s examination of conscience). Toàn bộ nội dung những bài viết của tôi không đi ra ngoài mục đích trong tư cách là tín đồ Công Giáo. Nếu suy nghĩ như vậy, tôi tin rằng quý vị khó có thể có lý do chính đáng để kết án tôi về một tội nào được.

Hầu hết các giáo hội Công Giáo Âu Mỹ hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo hoàng Jean Paul II đã lên tiếng thú nhận tội lỗi của giáo hội và khẩn xin sự tha thứ của loài người. Chỉ riêng giáo hội Công Giáo Việt nam, dưới sự lãnh đạo của HĐGM do Hồng y Phạm Đình Tụng cầm đầu, cho đến nay vẫn cứ im hơi lặng tiếng và vẫn cố tình giả điếc như chẳng có chuyện gì xảy ra ! Thái độ ngoan cố của Công Giáo Việt Nam nói chung và của HĐGM Việt Nam nói riêng là không thể chấp nhận được. Theo công tâm mà xét, chỉ những kẻ phạm tội biết tỏ ra có thành tâm hối hận mới đáng được tha thứ. Trái lại, Giáo hội Công Giáo Việt Nam là một tập thể tội phạm đối với dân tộc, nếu không sớm tỉnh thức ăn năn hối hận và xin sự tha thứ mà vẫn cứ tiếp tục thản nhiên như hiện nay thì nhất định sẽ bị toàn dân Việt Nam trừng trị đích đáng vì chính thái độ trân tráo của họ đã làm cho họ không đáng được tha thứ !

Không phải đến bây giờ mọi người mới nhận ra cái bản chất xấu xa gớm ghiếc của đạo Công Giáo mà khắp thế giới đã có biết bao phong trào và danh nhân của nhân lọai đã phải lên tiếng gay gắt kết án nó từ lâu. Chỉ riêng tại Việt Nam, các cụ ngày xưa đã gọi Công Giáo là Hoa Lang Tả đạo. Cuối thể kỷ 19, cụ đồ ái quốc Nguyễn Đình Chiểu gọi Công Giáo là Tà đạo, đầu thế kỷ 20, nhà cách mạng Phan Bội Châu gọi nó là Đạo Chích. Tại hải ngoại, nhân sĩ Công Giáo tỉnh ngộ là BS Nguyễn Văn Thọ nói là Đạo Dối, nhà nghiên cứu văn hóa chính trị Lê Trọng Văn gọi nó là Đạo Bịp. Mới đây nhất, ứng cử viên tổng thống Mỹ George W. Bush trong cuộc vận động bầu cử tại trường Đại học South Carolina ngày 2.2.2000 đã gọi giáo hội Công Giáo là Giáo hội của Satan. Có một điều đáng ngạc nhiên là nếu chúng ta đọc kỹ Thánh Kinh Tân Ước sẽ nhận thấy chính Jesus cũng gọi Phê-rô, kẻ đứng đầu giáo hội Công Giáo là Satan. Phúc âm của Matthew [Thánh Kinh Tân Ước cuốn Mathiơ, chương 16, đoạn 23.] (16:23) có chép lời của Jesus như sau : "Nhưng Ngài quay mặt lại mà phán cùng Phê-rô rằng : Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau ngươi, người xúc phạm ta" (But He turned and said unto Peter : Get thee behind me, Satan, thou art an offence unto me). Theo nguyên ngữ Hebrew thì Satan có nghĩa là Vật Chất. Phê-rô là Đá. Đá và Vật Chất là một. Giáo hội Công Giáo của Phêrô quả thật là giáo hội của Satan vì nó chỉ lo vơ vét tiền của vật chất và chiếm đọat quyền lực khuynh đảo thế gian. Cho nên trong gần hai ngàn năm qua, nó đã lao mình vào con đường tội lỗi chống loài người và chống cả Thiên Chúa !

Từ ngày tên bạo chúa La Mã Constantine biến nó thành tôn giáo chính thức của đế quốc vào năm 325 đến nay, nó đã giết hại trên 200 triệu người, trong số đó có 3 triệu người trong hàng ngũ Thập tự quân đã chết uổng mạng để giải cứu ngôi mộ của Jesus khỏi tay quân Hồi Giáo, trên 10 triệu người chống đạo bị đưa lên giàn hỏa và 14 triệu nạn nhân trong các cuộc thánh chiến do Vatican phát động nhằm tiêu diệt các giáo phái Kit-tô khác (Deception and Myths of the Bible by Lloyd M. Graham, p.463). Nhưng có lẽ tội ác lớn hơn mọi tội lỗi kể trên là Công Giáo La Mã đã phá hủy gần như hoàn toàn nền văn minh nhân bản của Hy Lạp khiến cho đà tiến hóa của nhân loại đã bị khựng lại trên một ngàn năm ! Các bộ óc vĩ đại của Hy Lạp như Pythagoras vào thế kỷ 16 TCN đã dạy học trò là trái đất tròn và xoay chung quanh mặt trời. Vào thế kỷ 3 TCN. Aristarchus đã đưa ra lý thuyết về thái dương hệ tương tự như lý thuyết của Copernicus (thế kỷ 6). Cũng trong thời gian đó, Eratosthene đã đo được chu vi trái đất. Đến thế kỷ thứ 2 TCN, Hippachus đã phát minh ra cách vẽ địa cầu theo kinh tuyến và vĩ tuyến ! (sách dẫn chiếu trang 448).

Để thay thế cho ngọn đuốc Hy Lạp thắp sáng trí tuệ, Công Giáo La Mã đã bao trùm lên toàn thể nhân loại bóng tối triền miên qua nhiều thế kỷ bằng cách không ngừng bành trướng thế lực và truyền bá nền văn hóa du mục máu lửa bắt nguồn từ Babylon-Israel để gieo rắc không biết bao nhiêu thứ tai họa đau thương cho cả loài người trong gần 17 thế kỷ qua. Vậy chúng ta nên gọi Công Giáo La Mã là gì cho đúng với thực tế ghê tởm khủng khiếp của nó ? Tôi đề nghị chúng ta nên gọi Đạo Công Giáo là " ĐẠO MÁU" hoặc cũng có thể gọi nó là "Tây-Dương Khuyển-Sinh Đại-Đạo"! Bởi vì Công Giáo La Mã thực chất không phải là đạo thờ Thiên Chúa mà là đạo thờ con quái vật ba đầu (hoặc ba ngôi) và một người đàn bà Do Thái. Từ thế kỷ 11 đến nay, Công Giáo La Mã đã ra sức thần thánh hoá người đàn bà này tới mức ngày nay bà ta đã trở thành ngôi thứ tư của Thiên Chúa. Do đó, Thiên Chúa của Công Giáo La Mã (The Roman Catholic God) đã thật sự trở thành Quái Vật Bốn Đầu (gồm có một đầu bò El, một đầu thanh niên mặt mũi hắc ám đầu đội mão gai, máu me đầy mặt có hình in trên tấm vải liệm ở nhà thờ lớn Turin, một đầu chim bồ câu đực và mới thêm một đầu đàn bà). Tuần báo Newsweek số ra ngày 25/8/1997 (trang 49) viết : "Thay vì Thiên Chúa Ba Ngôi, dường như đã xuất hiện một loại Thiên Chúa Bốn Ngôi với vai trò phức tạp của bà Maria : Cùng một lúc bà ta là con gái của Chúa Chamẹ của Chúa Con và vợ của Chúa Thánh Thần. (In place of the Holy Trinity, it would appear there would be a kind of Holy Quartet with Mary playing the multiple roles of daughter of the Father, mother of the Son and Wife of the Holy Spirit). Theo giáo lý Công Giáo thì Ba Ngôi là một Thiên Chúa, cho nên cùng một lúc Jesus là con, là cha và cũng là chồng của bà Maria. Chỉ riêng một điều này cũng đủ cho ta thấy giáo lý căn bản của đạo Công Giáo chẳng những nhảm nhí bậy bạ mà còn mang tính chất loạn luân mất dạy (incestuous, ill-bred).

Ngoài ra, Công Giáo còn tôn sùng nhiều kẻ loạn luân khác như "thánh" Abraham (lấy em gái làm vợ) ; cha con Lot trong Kinh Thánh Cựu Ước (Lot lấy 2 cô con gái, một cô có với y 2 đứa con), "vua thánh" David giết tướng dưới quyền để cướp vợ của ông ta là Bathsheba để đẻ ra tổ tiên của Jesus. Giáo hoàng Borgia Alexander VI (1492-1503) có công xây dựng kiệt tác kiến trúc là Đền Thánh Phêrô và nuôi các danh họa kỳ tài Michael Angelo, Leonardo da Vinci [1451-1519, người Ý: họa sĩ, kỹ sư, nhạc sĩ và khoa học gia.] để họ có phương tiện kiến tạo nhiều kiệt tác hội họa và điêu khắc để đời. Nhưng đồng thời y cũng tổ chức nhiều cuộc truy hoan cực kỳ xa hoa trụy lạc cho các giáo sĩ và viên chức tòa thánh làm tình tập thể (sex orgy) ngay tại Tòa Thánh với những gái điếm tuyển lựa ở Roma. Giáo hoàng cho người đi hứng tinh dịch của những người đàn ông tham dự để làm tiêu chuẩn tuyển chọn người có khả năng làm tình xuất sắc nhất. Sau đó giáo hoàng và con gái y là Lucrezia đích thân phát thưởng. Con trai của giáo hoàng là "ông hoàng" Caesar Borgia nổi tiếng độc ác quỷ quyệt đã trở thành đề tài cảm hứng cho Machiavel [1469-1527, người Ý.] viết nên tác phẩm The Prince lừng danh thế giới. Lucrezia làm tình với cả cha lẫn anh nên khi nàng sinh ra một đứa con trai, c

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét