Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2020

GIÁO SĨ THỪA SAI NHỮNG TÊN LÍNH TIÊN PHONG TRONG CÔNG CUỘC XÂM LƯỢC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY - ÔN CỐ NHI TRI TÂN _ 24/11/2020 F

Vatican đã từng có âm mưu công giáo hóa Nhật Bản và tiêu diệt Phật giáo nhưng thất bại.

.
Nhân sự kiện GH Francis thăm Nhật Bản, tôi post lại bài viết này để các bạn nắm rõ Vatican đã từng có âm mưu công giáo hóa Nhật Bản và tiêu diệt Phật giáo nhưng thất bại.
LỊCH SỬ TRUYỀN ĐẠO CÔNG GIÁO VÀO NHẬT BẢN: “cải đạo, tiêu diệt Phật giáo, xung đột chính trị và nội chiến, vũ trang chống lại triều đình và cuối cùng bị tiêu diệt.”
Trích: “Vào năm 1596, một tàu chiến Tây Ban Nha tên San Felipe bị đắm ngoài khơi biển của Tosa. Lãnh chúa Hideyoshi ra lệnh tịch thu tàu chiến và hàng hóa trên tàu. Thuyền trưởng Tây Ban Nha nổi giận đã xỉ nhục quan chức Nhật bản bằng cách ba hoa rằng sở dĩ Tây Ban Nha có được một đế chế rộng lớn và trưng ra bằng chứng là một tấm bản đồ với tất cả những thuôc địa thuộc của Tây Ban Nha trên toàn thế giới. Quá đỗi ngạc nhiên, quan chức Nhật mới hỏi lý do mà Tây Ban Nha có thể chinh phục được nhiều đất đai như vậy. Thuyền trưởng Tây Ban Nha khoát lác rằng Nhật bản không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha, đơn giản bởi vì Nhật bản KHÔNG CÓ CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI CÔNG GIÁO. Thuyền trưởng xác nhận rằng tất cả các thuộc địa mà Tây Ban Nha có được bằng cách ĐẦU TIÊN GỬI CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI ĐẾN ĐỂ CẢI ĐẠO, SAU ĐÓ QUÂN ĐỘI TÂY BAN NHA SẼ PHỐI HỢP VỚI CON CHIÊN BẢN ĐỊA ĐỂ HOÀN THÀNH CUỘC CHINH PHỤC. Khi tin tức này được bào cáo lại, lãnh chúa Hideyoshi đã giận run người. Sự nghi ngờ của ông về việc sử dụng giáo sỹ thừa sai như là bước đầu tiên để chinh phục thuộc đia đã được xác nhận. Ông đã nhận ra chiến lược chinh phục xảo quyệt này đang có tác dụng trên lãnh thổ của ông.”
TÓM TẮT:
Các nhà truyền giáo Vatican được chào đón ở Nhật vào thế kỷ 16 và được những lãnh chúa Nhật Bản bảo vệ, cấp đất, cấp kinh phí hằng năm, nỗi bậc là lãnh chúa Nobunaga (1573-1582). Công giáo Nhật lớn mạnh dạy con chiên Nhật chỉ trung thành với giáo hoàng và bắt đầu can thiệp vào chính trị ở Nhật. Công giáo chống lại triều đình và gây ra bất ổn dân sự và nội chiến. Công giáo khủng bố tiêu diệt Phật giáo ở Kyoto và Osaka. Những trận chiến diễn ra giữa Dòng Tên (Tây Ban Nha hậu thuẫn) và Dòng Thánh Francis (Bồ Đào Nha hậu thuẫn) khi tranh giành con chiên. Thủ lãnh Tây Ban Nha (Dòng Tên) chống lại lệnh trục xuất của nhà cầm quyền Nhật Hideyoshi . Công giáo Nhật bản vũ trang chống lại triều đình, nỗi bậc là Dòng Tên đã lãnh đạo đội quân 30,000 con chiên Nhật, giết chết Thống đốc của Shimbara. Chính quyền cầu viện tàu chiến của Hà Lan giúp Nhật Bản tiêu diệt pháo đài của Công giáo. Sắc lệnh “Bế Quan Tỏa Cảng” ban hành năm 1639: tất cả Kitô hữu bị cấm vào Nhật vĩnh viển. Mãi đến 250 năm sau, Phó đề đốc hải quân Hoa Kỳ Perry dẫn đầu đoàn chiến thuyền đến yêu cầu Nhật bản mở cửa, Sắc lệnh “Bế Quan Tỏa Cảng” mới được bãi bỏ.
TỔNG QUAN
Tôn giáo ở Nhật Bản được thống trị bởi hai tôn giáo chính: Thần đạo - Shinto (tôn giáo dân gian của người Nhật) và Phật giáo với các tổ chức liên quan. Theo cuộc điều tra được thực hiện vào năm 2006 và năm 2008, dưới 40% dân số của Nhật Bản tự nhận đi theo một tôn giáo có tổ chức: khoảng 35% là Phật giáo, 3% đến 4% là tín đồ của Thần đạo và các tôn giáo phái sinh từ Thần đạo, và ít hơn 1% đến 2.3% dân số theo Kitô giáo.
Con người Nhật bản, văn hóa Nhật bản được kính trọng trên toàn thế giới bởi tính trung thực, lòng tự trọng và tính nhân văn. Ít ai biết được lịch sử cận đại của Nhật bản đã trải qua một giai đoạn đau thương khi Công giáo La mã được truyền vào quốc gia này và gây ra cải đạo hàng loạt đi kèm với bách hại Phật giáo.
Theo “Vietnam, Why did we go” (của tác giả Avro Manhattan Avro Manhattan, 1984, chương 18) giống như truyền đạo vào Trung Quốc và Thái lan, chiến lược căn bản của Vatican vẫn là sử dụng giới gian thương câu kết với giáo sỹ mê hoặc tín đồ để cuối cùng chinh phục thuộc địa bằng quân sự bởi các Công quốc liên minh với Vatican như Tây Ban Nha, Bồ Đào nhà và các nước phương Tây nhằm mở rộng nước chúa.
Nhật bản lần đầu tiên tiếp xúc với thế giới phương Tây rất hào hứng trao đổi văn hóa và thương mại. Các thuyền buôn Bồ Đào Nha lần đầu tiên cập cảng Nhật Bản được chào đón nồng nhiệt và các giáo sỹ được tự do truyền đạo Công giáo ở vùng đất mới này. Những giáo sỹ này đã được nhà độc tài hùng mạnh, lãnh chúa Nobunaga (1573-1582) bảo hộ. Ông ta khuyến khích và cho phép các giáo sỹ truyền giáo trên khắp lãnh thổ. Ông hiến đất ở Kyoto và thậm chí còn hứa hẹn trợ cấp mỗi năm. Nhờ vào điều này, chẳng bao lâu cơ sở Công giáo đã được mọc lên khắp nơi trên đất Nhật bản với hàng ngàn người bị cải đạo.
Tuy nhiên, các giáo sỹ thừa sai không muốn hạn chế lãnh vực hoạt động của mình trong việc truyền bá đức tin. Một khi cộng đồng Công giáo được thành lập, họ muốn áp đặt cả nền tư pháp, ngoại giao và chính trị của Vatican lên đất nước mới này. Vì được nhồi sọ như là một đức tin, người Nhật cải đạo không chỉ quy thuận triều đình Nhật, theo đức tin, họ đã trở thành con cái chúa và phải vâng phục giáo hoàng có trụ sở tại Vatican. Một khi lòng trung thành của con chiên Nhật bị chuyển sang trung thành với ngoại bang, con chiên tự động bất trung với nhà cầm quyền Nhật.
Điều này dẫn đến những nguy cơ khủng khiếp cho những hiểm hoại nội xâm và ngoại xâm ở Nhật. Về nội xâm, sự bất khoang dung tôn giáo của Công giáo đã dẫn đến xung đột giữa các tôn giáo bởi vì tín lý cơ bản của Công giáo nhồi sọ con chiên rằng chỉ duy nhất Công giáo mới là tôn giáo của sự thật và dĩ nhiên điều này đã dẫn đến xung đột dân sự. Về đối ngoại, Công giáo Nhật bản phải theo sự điều hành của các giáo sỹ ngoại bang, không chỉ ủng hộ lợi ích thương mại của các thương lái Công giáo ngoại quốc mà còn phải ủng hộ những kế hoạch chính trị của Vatican để chinh phục châu Á qua chính trị và quân sự.
Không lâu sau khi những thừa sai Công giáo hiện diện, các nhà cầm quyền Nhật bản bắt đầu nhận ra rằng Công giáo không chỉ là một tôn giáo, mà nó còn là một thế lực chính trị liên kết chặc chẽ với sự bành trướng đế quốc của những công quốc như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và những nước phương Tây.
Tín lý độc ác của Công giáo cho rằng Công giáo là tôn giáo của sự thật và duy nhất đúng và cho rằng những sai lầm không nên được dung thứ. Chính tín lý này đã bắt đầu tạo ra hoa trái ở trên đất Nhật bản.
Bất cứ khi nào và ở đâu có người cải đạo sang Công giáo và cộng đồng Công giáo được thành lập và bành trướng, ở đó sẽ có sự áp đặt tôn giáo, sẽ có những phật tử và những người bản xứ với tôn giáo bản địa phải chịu đựng số phận bị tẩy chay, đền chùa bị đóng cửa và nếu không bị phá hủy thì cũng bị chiếm đoạt và chuyển thành nhà thờ. Rất nhiều trường hợp phật tử bị cưỡng bách cải đạo, nếu không có thể bị tước đoạt tài sản hoặc thậm chí nguy hại đến tính mạng. Đối diện với những hành vi độc ác như vậy, thái độ của nhà cầm quyền Nhật bản bắt đầu thay đổi.
Khi biết được sự thành công vượt bậc của Công giáo ở đế quốc Nhật bản xa xôi, Tòa thánh Vatican đã lên kế hoạch bành trướng về chính trị và sử dụng sách lược kinh điển với giáo sỹ đi trước để nhồi sọ con chiên vâng phục, phối hợp với năng lực quân sự của những quốc gia Công giáo đồng minh. Vatican háo hức muốn mang thập giá, giáo quyền, những hiệp ước thương mại sinh lợi nhuận và chinh phục bằng quân đội áp đặt lên Nhật bản. Vatican từng có kinh nghiệm áp dụng chiến lược này để chinh phục châu Mỹ. Nhiều giáo hoàng bao gồm Leo X đã ban phước, khuyến khích và thậm chí hợp thức hóa những cuộc chinh phục, xâm lược chiếm đất vùng Trung Đông của những công quốc như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Nỗi bậc hơn cả là giáo hoàng Alexander VI đã ban cho Tây Ban Nha "tất cả đất đai và hải đảo được tìm thấy trên đường đến Ấn Độ" (xem sách The pope's Bull của Castill). Lãnh thổ Nhật bản đã được giáo hoàng ban cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thống trị.
Do vậy, khi cộng đồng Công giáo Nhật bản đủ lớn mạnh để hỗ trợ, Vatican đã đi một bước chiến lược quan trọng đầu tiên trong kế hoạch dài hơi: biến Công giáo Nhật bản trở thành một công cụ chính trị.
Để thực hiện chiến lược này, vào năm 1579 Vatican đã gửi một trong những giáo sỹ dòng tên có năng lực nhất tên là Valignani để sang Nhật tổ chức Công giáo Nhật bản nhằm thực hiện kế hoạch này. Dĩ nhiên, kế hoạch của Valignani ban đầu được ngụy trang trong lớp vỏ thuần túy tôn giáo và được sự ủng hộ của nhiều lãnh chúa hùng mạnh như Omura, Arima, Bungo và một số khác. Trong những giáo phận dựng nên, Valignani đã xây dựng trường học, bệnh viện, nhà dòng và đào tạo thế hệ trẻ Nhật bản về thần học, văn học chính trị và khoa học.
Một khi sự xâm nhập đủ sâu vào tín ngưỡng, giáo dục, cấu trúc xã hội của giáo phận, Valignani đã đi bước kế tiếp và thuyết phục các lãnh chúa gửi một đoàn ngoại giao đến gặp giáo hoàng. Khi đoàn ngoại giao quay về Nhật vào năm 1590, tình hình Nhật bản đã thay đổi trầm trọng. Lãnh chúa Hideyoshi (1536 – 1598, Hán-Việt: Phong Thần Tú Cát hoặc Vũ Sài Tú Cát) mới thay thế Nobunaga đã thấy được dã tâm chính trị của Công giáo và sự vâng phục của nó đối với giáo hoàng Vatican. Ông ta quyết định liên kết với phật giáo - một lực lượng đồng hành với dân tộc và không bị ngoại bang giật dây.
Năm 1587, Hideyoshi đến thăm vùng Kyushu và ngạc nhiên về tội ác của cộng đồng Công giáo nơi đây. Ông ta thấy khắp nơi trong vùng là những đền chùa Phật giáo, tượng Phật bị đập phá hoặc hoang phế. Thật ra, Công giáo đã cưỡng bách và biến toàn đảo Kyushu thành vùng đất toàn tòng công giáo. Vô cùng căm phẫn, Hideyoshi đã cáo buộc Công giáo về những vụ tấn công Phật giáo, về sự bất khoang dung tôn giáo, về sự trung thành với ngoại bang Vatican và những khinh tội khác. Ông đã ra tối hậu thư cho tất cả thế lực Công giáo ngoại bang chỉ có 20 ngày để rời khỏi Nhật bản.
Sau đó, nhà thờ và tu viện ở Kyoto, Osaka bị phá hủy để trả thù cho những đợt tấn công vào Phật giáo và quân đội được điều đến Kyushu. Những biện pháp như vậy chỉ thành công một phần bởi vì xã hội Nhật bản đã bị Công giáo xâm nhập quá sâu. Năm 1614, tất cả giáo sỹ Công giáo ngoại quốc một lần nữa lại bị trục xuất. Lệnh trục xuất lần này còn được xúc tiến mạnh mẽ bởi vì một lý do nghiêm trọng hơn. Số là các giáo sỹ công giáo bên cạnh việc cổ súy cho bất khoang dung tôn giáo giữa những người Nhật còn bắt đầu tổ chức một cuộc chiến tranh ác liệt giữa các dòng với nhau.
Những bất hòa giữa các giáo sỹ dòng Tên và các giáo sỹ dòng Francis đã chia cắt cộng đồng công giáo Nhật bản. Sự hận thù giữa các dòng với nhau trở nên rất nghiêm trọng đến nỗi nhà cầm quyền Nhật lo ngại sẽ xãy ra nội chiến. Họ lo ngại cuộc nội chiến này có thể dẫn đến sự can thiệp quân sự của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha để bảo vệ giáo sỹ mỗi dòng.
Quân đội nước ngoài can thiệp vào Nhật đồng nghĩa với Nhật bản mất độc lập tự chủ. Liệu có thổi phồng nguy cơ quá cao? Thực ra thì sự bành trướng kinh khủng của Công giáo Bồ Đào Nha và Công giáo Tây Ban Nha là một thực tế chứng minh cho nguy cơ trên. Sự truyền giáo của dòng Francis sang Nhật phát xuất từ nước Philippines bị chinh phục vào năm 1593 làm cho lãnh chúa Hideyoshi thực sự lo lắng. Giáo sỹ dòng Francis phớt lờ lệnh cấm truyền giáo, xây dựng nhà thờ và cải đạo ở Kyoto, Osaka và thách thức chính quyền. Để làm phức tạp tình hình, dòng Francis bắt đầu gây chiến với dòng Tên của Bồ Đào Nha. Giọt nước làm tràn ly khiến lãnh chúa Hideyoshi quyết định dùng những biện pháp mạnh đó là một biến cố nhỏ nhưng có ý nghĩa được kể sau đây.
Vào năm 1596, một tàu chiến Tây Ban Nha tên San Felipe bị đắm ngoài khơi biển của Tosa. Lãnh chúa Hideyoshi ra lệnh tịch thu tàu chiến và hàng hóa trê tàu. Thuyền trưởng Tây Ban Nha nổi giận đã xỉ nhục quan chức Nhật bản bằng cách ba hoa lý do mà Tây Ban Nha có được một đế chế rộng lớn và trưng ra bằng chứng là một tấm bản đồ về những thuộc địa của Tây Ban Nha trên toàn thế giới. Quá đỗi ngạc nhiên, quan chức Nhật mới hỏi lý do mà Tây Ban Nha có thể chinh phục được nhiều đất đai như vậy. Thuyền trưởng Tây Ban Nha khoát lác rằng Nhật bản không bao giờ có thể bắt chước được Tây Ban Nha đơn giản bởi vì Nhật bản KHÔNG CÓ CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI CÔNG GIÁO. Thuyền trưởng xác nhận rằng tất cả các thuộc địa mà Tây Ban Nha có được bằng cách ĐẦU TIÊN GỬI CÁC GIÁO SỸ THỪA SAI ĐẾN ĐỂ CẢI ĐẠO, SAU ĐÓ QUÂN ĐỘI TÂY BAN NHA SẼ PHỐI HỢP VỚI CON CHIÊN BẢN ĐỊA ĐỂ HOÀN THÀNH CUỘC CHINH PHỤC. Khi tin tức này được báo cáo lại, lãnh chúa Hideyoshi đã giận run người. Sự nghi ngờ của ông về việc sử dụng giáo sỹ thừa sai như là bước đầu tiên để chinh phục thuộc đia đã được xác nhận. Ông đã nhận ra chiến lược chinh phục xảo quyệt này đang có tác dụng trên lãnh thổ của ông.
Năm 1597, chính quyền ra lệnh cấm giáo sỹ của cả 2 dòng Tên và Francis. 26 giáo sỹ ở Nagaski bị trói gô và xử tử. Một lệnh trục xuất tất cả các nhà truyền giáo công giáo ngoại quốc được ban hành.
Năm 1598, Hideyoshi chết và Công giáo được dịp phục hồi. Lãnh chúa Leyasu lên cầm quyền vào năm 1616 đã ra sắc lệnh trục xuất còn quyết liệt hơn. Các giáo sỹ ngoại quốc một lần nữa bị buộc phải rời khỏi Nhật bản và án tử hình được áp dụng cho các con chiên Nhật không chịu từ bỏ công giáo. Chính sách cấm đạo này xãy ra càng mạnh mẽ hơn vào năm 1624 dưới quyền lãnh chúa Jemitsu (1623-1651) khi tất cả thương nhân và giáo sỹ Tây Ban Nha được lệnh trục xuất ngay tức khắc. Con chiên Nhật bản được cảnh báo không được xuất ngoại theo chân các giáo sỹ và thương nhân Nhật bản không được giao thương với thương nhân công giáo. Để chắc chắn những sắc lệnh này được tôn trọng, tất cả hải thuyền có thể chở tải trọng trên 2500 giạ gạo đã bị phá hủy. Chính quyền đã quyết định tiêu diệt Công giáo ở Nhật bản. Ngoài ra, sắc lệnh những năm 1633, 1634 và 1637 còn cấm hoàn toàn tôn giáo ngoại bang trên những đảo Nhật bản.
Đến mức này, Công giáo Nhật bản bắt đầu tổ chức trở lại cho một cuộc kháng cự bạo lực và nó xãy ra vào mùa đông năm 1637 ở Shimbara và đảo kế cận Amakusa.Những khu vực này đã từng trở thành vùng toàn tòng công giáo qua phần lớn là cải đạo tự nguyện và một số là bắt buộc bằng bạo lực. Được lãnh đạo bởi các giáo sỹ phương Tây, những cộng đồng Công giáo này bắt đầu tổ chức vũ trang theo mô hình quân đội để chống lại triều đình. Chính quyền Nhật bản lo ngại rằng những cộng đồng công giáo này có thể bị lợi dụng bởi các chính phủ công giáo phương Tây để chinh phục Nhật bản. Những giáo sỹ dòng Tên chuẩn bị cho một vụ bạo loạn bằng cách thành lập một lực lượng quân đội gồm 30,000 con chiên Nhật mang theo biểu tượng Giêsu, Maria và St. Ignatius. Đội quân này diễu hành chống lại đại diện chính quyền, tham gia những trận chiến đẫm máu dọc theo mũi đất Shimbara gần vịnh Nagasaki, giết chết thống đốc của Shimbara và đồn trú trong pháo đài kiêng cố đẩy lùi những đợt pháo kích từ tàu chiến của chính quyền.
Sau đó chính quyền đã liên lạc với Tin Lành Hà Lan hỏi mượn tàu chiến lớn có thể mang hỏa lực hạng nặng để bắn phá pháo đài công giáo. Người Hà lan đồng ý và Nhật bản đã có thể oanh tạc pháo đài cho đến khi nó bị phá hủy hoàn toàn và tất cả con chiên đều bị tàn sát. Kết quả tức thời của cuộc bình loạn Công giáo được Nhật bản thể hiện bằng "Sắc Lệnh Bế Quan Tỏa Cảng" (the Exclusion Edict) năm 1639:
"TRONG TƯƠNG LAI CHO ĐẾN KHI MẶT TRỜI CÒN CHIẾU SÁNG THẾ GIỚI NÀY, KHÔNG MỘT TÀU BÈ NÀO ĐƯỢC DONG BUỒM ĐẾN NHẬT BẢN, THẬM CHÍ CHO DÙ ĐÓNG VAI TRÒ LÀM ĐẠI SỨ . THÔNG CÁO NÀY KHÔNG BAO GIỜ BỊ HỦY BỎ CHO DÙ PHẢI ĐÁNH ĐỔI BẰNG CÁI CHẾT"
(For the future, let none, so long as the Sun illuminates the World, presume to sail to Japan, not even in the quality of ambassadors, and this declaration is never to be revoked, on pain of death.).
Sắc lệnh này áp dụng cho tất cả những người phương Tây với một ngoại lệ là người Hà lan, vì họ đã giúp Nhật bản đánh bại cuộc nỗi loạn của Công giáo. Tuy nhiên, họ cũng bị hạn chế đi vào Nhật bản bởi vì họ cũng được gọi là Kitô hữu vì theo Tin Lành. Đối với người Nhật, bất cứ điều gì nối kết với Kitô đều bị nghi ngờ là gian dối, cực đoan, và xâm lược.Người Hà lan phải di chuyển Tổng hành dinh của họ về một hòn đảo nhỏ ở Deshima trong vịnh Nagasaki. Họ sống gần như những tù nhân và chỉ được phép đặt chân vào đất liền một lần trong năm. Tuy nhiên, những hạn chế lớn nhất lại liên quan đến những nghi thức tôn giáo Kitô. Người Hà lan không được phép cầu nguyện ở nơi có người, thậm chí chỉ có sự hiện diện của một người Nhật. Người Nhật đã trở nên quá nhạy cảm đối với bất cứ thứ gì gợi nhớ lại Kitô giáo đến nỗi người Hà lan bị cấm sử dụng dương lịch trong giấy tờ kinh doanh bởi vì nó gợi nhớ tới Kitô. Ngày nay, Kitô giáo trong mắt họ không gì khác hơn là dụng cụ tra tấn của phương Tây để đạt được sự thống trị về quân sự và chính trị. Khi người Hà lan ký hiệp ước thương mại với Nhật bản gồm 7 điều thì có đến 4 điều liên quan đến Kitô: (xem sách "The Far East since 1500", Paul E. Eckel; Harrap, 1948):
1.Buôn bán giữa Nhật và Hà lan sẽ tồn tại mãi mãi
2.Tàu Hà lan không được phép chở con chiên của bất kỳ quốc gia nào hoặc chuyên chở thư tín được viết bởi con chiên
3.Người Hà lan nên báo cáo cho chính quyền Nhật bất cứ thông tin nào về truyền đạo Kitô ở những lãnh địa ngoài Nhật bản mà có thể liên quan
4.Nếu người Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha chinh phục những quốc gia qua con đường tôn giáo, những thông tin như vậy nên đước báo cáo với chính quyền ở Nagasaki.
(1. Commerce between Japan and Holland was to be perpetual.
2. No Dutch ship should carry a Christian of any nationality or convey letters written by Christians..
3. The Dutch should convey to the Japanese governor any information about the spreading of Christianity in foreign lands that might be of interest.
4. If the Spaniards or Portuguese seized countries by means of religious machination, such information should be given to the Governor of Nagasaki)
Ngoài những điều này, tất cả những sách thuộc về tàu Hà lan, đặc biệt những sách về đề tài tôn giáo phải đọc bọc kỹ và trình cho hải quan Nhật lúc cập bến. Người Hà lan đầu tiên được phép có 7 tàu được vào Nhật mỗi năm, sau đó bị hạn chế chỉ còn một tàu mỗi năm. Nghi ngờ về tính ngang ngạnh và xảo quyệt của con chiên đã trở nên quá sâu sắc đến nỗi mà họ thậm chí sửa đổi những sắc lệnh đầu tiên theo hướng ngày càng tăng nặng. Bất cứ tàu bè nào chứa con chiên tìm cách tỵ nạn tại một hải cảng của Nhật ngay cả bị đắm tàu ngoài khơi Nhật bản đều bị cho là tội phạm.
Nhật bản trở thành một mãnh đất "bế quan tỏa cảng" kín mít đối với thế giới bên ngoài kéo dài đến 250 năm cho đến năm 1853, Phó đề đốc hải quân Matthew Perry dẫn đầu bốn tàu chiến thuộc hạm đội Đông Ấn Độ của Hải quân Hoa Kỳ xuất hiện ngoài khơi Uraga ở vịnh Edo, Nhật Bản trình quốc thư yêu cầu Nhật bản mở của trở lại. Lúc này sắc lệnh mới được bãi bỏ.


.
Xin xem bài gốc ở link này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét