Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 17 tháng 5, 2021

GIÁO HỘI LA MÃ: LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

NHỮNG HÀNH ĐỘNG CỰC KỲ DÃ MAN CỦA BỌN
CON CHIÊN ÂU CHÂU VÀ CON CHIÊN NGƯỜI VIỆT
Những hành động cực kỳ dã man của những người tín hữu Ki-tô đã bị giáo triều Vatican “súc vật hóa” đều được các chứng nhân đương thời hay sách sử ghi lại rõ ràng như sau:
1.-/ Chuyện tân giáo hoàng đào mả giáo hoàng tiền nhiệm, lấy xác cho ngồi vào ghế bị cáo rồi lập phiên tòa xử và hành hạ xác chết để trả thủ được sách The Decline and Fall of The Roman Church ghi lại như sau:
“Giáo Hoàng Formosus (891-896) chết và đã chôn được hơn 11 tháng rồi. Theo ý muốn của bà Agiltruda (một bà Hoàng có thế lực trong giáo triều Vatican), tân Giáo Hoàng Stephen VII (896-897) ra lệnh quật mồ Ngài, lấy xác đem về Dinh Lateran cho mặc áo choàng của Giáo Hoàng và để ngồi vào chiếc ngai vàng của giáo triều, rồi cùng các ông hồng y và giám mục trong Tòa Thánh Vatican tiến hành phiên tòa xử tội. Đây là một phiên tòa lừng danh về việc xử một cái xác chết của người bị thù ghét. Bà Agiltruda muốn có phiên tòa này đã từ lâu. Đó là lý do khiến cho bà đem theo cô bé Morozia cùng đi với bà tới Dinh Lateran và bà vui cười sung sướng vào lúc này. Trong phòng xử, mọi sự việc đều tiến hành đúng như dự trù. Chính Giáo Hoàng Stephen VII và một công tố viên của giáo triều đối chất với xác chết đã rữa thối này. Có một thanh niên trợ tế 18 tuổi run rẩy đứng bên cạnh để trả lời thay cho xác chết theo lời đã dặn trước. Phiên xử bắt đầu khi Giáo Hoàng Stephen VII quát tháo với vẻ mặt xanh xám trong cơn giận dữ: “Tại sao mày lại tiếm đoạt ngôi vị giáo hoàng?” Cậu thanh niên trợ tế trả lời thay cho xác chết của Giáo Hoàng Formosus: “Vì tôi là kẻ xấu.”
Vào lúc gay cấn nhất của phiên tòa, các ông Hồng Y Sergius, Benedict, Paschalis, Leo, John và nhiều nhân vật khác trong hàng giáo phẩm chạy ào tới xác chết lột bỏ áo choàng (dành riêng cho giáo hoàng) và xé rời 3 ngón tay của bàn tay mặt ra khỏi bàn tay. (Giống như các ông giáo hoàng khác, khi còn sống, Giáo Hoàng Formosus thường dùng 3 ngón tay này để ban phước lành trong khi làm lễ.) Sau đó, họ lôi xác chết này ra khỏi phòng xử. Khi các ông hồng y và tu sĩ khác xúm nhau lôi xác chết này ra khỏi Dinh Lateran và kéo lê theo dọc đường phố thì cô bé Marozia cũng có mặt ở đó… Rồi thì họ liệng cái xác chết đó xuống sông Tiber làm cho nước sông bắn tung tóe lên. Sau đó, Giáo Hoàng Stephen VII sai Hồng Y Sergius đem 3 ngón tay đã xé rời khởi xác chết dâng lên cho bà Agiltruda theo lời yêu cầu của bà ta.”
2.-/ Chuyện những hành động dã man do bọn giáo sĩ vvà bọn lính đạo Ca-tô tàn sát những người khác tôn giáo vàn đào mả những người đã chết lấy xác rồi đốt thành tro để trả thù. Chuyện này được ông Trần Quý kể lại trong cuốn Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! như sau:
“Vào thế kỷ 13, dân ở vùng Toulouse, miền Nam nước Pháp ngày nay nhận thấy Giê-hô-va độc ác, đúng là quỉ Satan mạo nhận là Thiên Chúa, chớ không phải là Thiên Chúa thật. Họ thấy vị thần ấy gớm ghiếc quá, bỏ không thờ nữa tuy họ vẫn kính thờ Jesus. Họ lập thành Giáo Hội Ca-tha-ri. Giáo Hội Công La (Giáo Hội La Mã) kết tội họ là tà đạo. Năm 1209, Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216) ra lệnh thánh chiến để diệt họ. Vua chúa ở miền Bắc đất Pháp, ở đất Đức tuân lời, phái binh lính đến làm thành Thập Tự Quân để đánh bọn tà đạo. Rất đông tín đồ Jesus phe giáo hoàng tới trợ lực Thập Tự Quân. Đám quân này dưới quyền chỉ huy của giáo sĩ Amaud Amauri, đại diện giáo hoàng, bao vây thành Béziers. Thành bị hạ vào ngày 22 tháng 7 năm 1209. Toàn dân ở trong thành bị giết hết kể cả đàn bà và trẻ con. Tòa án đạo Jesus theo đuổi trừng phạt cả những người bị kết tội là tà đạo dù họ đã chết rồi. Chẳng hạn, năm 1329, tòa án đạo Jesus ở Carcassonne cho đào mả bẩy người phạm tội tà đạo, móc xác lên đốt đi; của cải của họ bị tịch thu, dòng dõi họ bị trừng phạt.”
3.-/ Một trong nhưng vụ tàn sát những người khác tôn giáo trong Thời Trung Cổ mà chúng gọi là “Trả Thù cho Chúa” Chuyện được sách The Decline and Fall of The Roman Church ghi lại như sau:
"Vị tướng chỉ huy chiến dịch tiêu diệt dân tà giáo Albigences tuyên bố: "Bất kể nam hay nữ, già hay trẻ, chức vụ lớn hay nhỏ, trước lưỡi gươm, họ đều như nhau." Hiệp sĩ ngoan đạo Ca-tô tên là Roland, khi chỉ huy đạo quân tiêu diệt người Moors (Hồi Giáo) đã hô lớn khẩu hiệu "Tà giáo là những người xấu xa. Tín đồ Ca-tô là những người công chính ngay thẳng." Khi tiến tới bao vây kinh thành Jerusalem, những người lính thập ác trong cuộc chiến Thập Ác Thứ Nhất hăng say với niềm tin rằng thiên thần đại diện cho Chúa đang chiến đấu bên cạnh họ. Thành tích của họ là 17 ngàn dân Hồi Giáo bị tàn sát dưới lưỡi gươm của họ ở ngay nơi đền thờ Solomon và tất những người Do Thái ở trong các giáo đường đều bị thiêu sống."
4.-/ Con chiên Ca-tô tàn sát dã man những người cùng thờ ông Jesus như họ, nhưng không chịu thuần phục Nhà Thờ Vatican. Chuyên này được sử gia Jack T. Chick ghi lại như sau:
“Ngày 22-8-1572 (Nhiều sách khác ghi là ngày 24/8/1572) bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân nữa bị sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng."
5.-/ Chuyện con chiên Ca-tô ở Ái Nhĩ Lan “trả thù cho Chúa” vào năm 1641”. Chuyện này cũng được sách Smokescreens ghi lại với như sau:
“Một vụ tàn sát người tập thể tương tự như vậy cũng xẩy ra ở Ái Nhĩ Lan vào năm 1641. Bọn tín đồ Da-tô chủ mưu chọn ngày 23 tháng 10 là ngày lễ kỷ niệm Ignatius Loyola, người sáng lập ra Dòng Tên: Chúng dự trù một cuộc tổng nổi dậy trong toàn quốc. Tất cả những người theo đạo Tin Lành đều phải bị giết ngay tức thì. Để làm cho những người Tin Lành không chú ý đến việc làm của chúng, chúng tỏ ra rất là tử tế với họ. Sáng sớm ngày vùng dậy, bọn chủ mưu đều có võ trang đi lùng bắt những người Tin lành. Gặp người nào là chúng giết người đó, không một chút thương xót. Những người Tin Lành này chưng hửng trong kinh hoàng. Họ đã sống trong yên bình từ nhiều năm. Giờ đây, gặp cảnh ngộ như vậy, họ không biết phải chạy trốn đi đâu. Những kẻ tàn sát họ lại là những người láng giềng, bạn bè và bà con của họ. Phụ nữ bị trói vào cọc (cột) lột trần đến thắt lưng, vú bị cắt đứt ra để máu chẩy cho đến chết. Những đàn bà mang thai thì bị trói và treo vào cành cây. Chúng mổ bụng nạn nhân lấy thai nhi ra để cho chó ăn. Trong khi đó thì những ông chồng của nạn nhân bị cưỡng bách phải đứng nhìn những cảnh dã man như vậy.”
6.-/Chuyện cọn chiên Ca-tô người Anh đào mả lấy xương cốt của kẻ cựu thù chính trị để trả thù một cách cực kỳ dã man. Vụ này xẩy ra ở nước Anh vào năm 1661. Họ đào mả của ông Oliver Cromwell (lãnh đạo chính quyền Anh từ ngày 16/12/1653 đến ngày 3/9/1658) chôn ở Wesminster Abbey lấy xác đem xiềng và treo vào một cây trụ tại Tyburn. Sau một thời gian (không biết là bao lâu), họ chặt lấy đầu đem cắm vào một cái sào, rồi đem bêu ở ngoài Tòa Thị Sảnh Wesminster (Westminster Hall). Còn cái xác thối rữa của nạn nhân thì chúng đem quẳng xuống một cái hố. Cái đầu của nạn nhân vẫn bị bêu tại chỗ này cho đến năm 1685, rồi được thay đổi nhiều lần, trong đó có một lần được đem bán cho một người tên là Josiah Henry Wilkinson vào năm 1814 trước khi được đem chôn ở trong khuôn viên trường Đại Học Sidney Susex ở Cambridge vào năm 1960.
7.-/ Chuyện “trả thù cho Chúa” vô cùng rùng rợn này mới xẩy ra trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và cũng do sách Smokescreens ghi lại như sau:
“Nạn nhân của bọn mật vụ Ustachi (đạo phiệt Gia-tô Croatia trong thời bạo chúa Ante Pevalich) không những bị tra tấn tàn nhẫn về thể xác, mà còn bị hành hạ đau đớn về tinh thần và lương tâm nữa. Một trường hợp vô cùng dã man và tàn ác chưa từng thấy như trường hợp dưới đây đã được ghi lại và phối kiểm qua nhiều nhân chứng có tuyên thệ: “Tại Nevesinje, bọn mật vụ Ustachi càn bắt hết tất cả cha mẹ (vợ chồng) và bốn người con của một gia đình người Serb (theo đạo Chính Thống). Người cha bị giam riêng ở một chỗ khác, người mẹ và 4 người con bị giam ở một chỗ khác. Suốt trong 7 ngày giam giữ, chúng không cho nạn nhân ăn uống gì hết. Rồi thì chúng mang đến cho người mẹ và 4 đứa con mỗi người một miếng thịt nướng khá lớn và nước uống thừa thãi. Sau nhiều ngày không được ăn uống, những người bất hạnh này ăn hết sạch miếng thịt nướng đó. Sau khi ăn xong, bọn mật vụ Ustachi mới nói với gia đình nạn nhân rằng đó là thịt người cha của họ."
8.-/ Chuyện con chiên Ngô Đình Khảchủ trương và chủ động đào mà cụ Phan Đình Phùng lấy xác để trả thù: Giữa thập niên 1890, Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả (thân phụ của Ngô Đình Diệm) là hai người chỉ huy cuộc hành quân tấn công lực lượng nghĩa quân kháng chiến Văn Thân dưới quyền chỉ huy của nhà ái quỗc Phan Đình Phùng ở Ngàn Trươi. Khi tiến được vào trong căn cứ nghĩa quân, họ được biết rằng cụ Phan đã qua đời vào ngày 21/1/1895 vì bệnh kiết lỵ. Vì không trả thù được khi cụ Phan còn sống, Ngô Đình Khả liền ra lệnh cho bọn lính đạo dưới quyền quật mồ cụ Phan lên, lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang để trả thù đúng theo truyền thống của Nhà Thờ Vatican.
a.-/ Chuyện dã man này được Wikipedia, the free encyclopedia ghi lại như sau:
“Di hài của cụ Phan cũng bị hủy diệt. Ngô Đình Khả, một vị quan lại theo đạo Ca-tô và là thân phụ của Ngô Đình Diệm - Tổng Thống đầu tiên của Miền Nam Việt Nam – cũng là một viên chức trong chính quyền thuộc địa Pháp. Khả cho người quật mồ cụ Phan rồi sử dụng di hài của cụ làm thuốc súng để hành hình các nhà cách mạng.”
b.-/ Sự kiện này được nhà viết sử Chính Đạo tức Vũ Ngự Chiêu ghi nhận một cách ngắn gọn trong cuốn Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí với như sau:
“6/1/1895. (Ngô Đình Khả - NMQ) theo Nguyễn Thân đánh dẹp tổ chức Văn Thân của Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh/ Nghệ An. Tháng 12/1895: Ngự Sử Phan Đình Phùng chết bệnh, (Ngô Đình Khả - NMQ) đào mộ Phan Đình Phùng, đốt xác, trộn tro với thuốc súng mà bắn đi.”
c.-/ Tác giả Hữu Nguyên kể lại rằng:
“Năm 1885, Ngô Đình Khả giữ chức An phủ sứ Quảng Bình lo việc bình định nghĩa quân của phong trào Cần Vương. Tháng 6/1895 được Nguyễn Thân chọn làm phụ tá trong chiến dịch tiễu trừ phong trào Cần Vương và quan Ngự sử Phan Đình Phùng. Khả làm Phó tướng cho Nguyễn Thân đàn áp các sỹ phu văn thân yêu nước hưởng ứng chiếu Cần Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi. Ngày 28/12/1895 quan Ngự sử Phan Đình Phùng từ trần, 12 ngày sau Khả cho đào mộ Phan Đình Phùng ở chân núi Quạt, đốt xác, trộn thuốc súng bắn xuống sông. Trước đó, 1894 họ đã khai quật mồ mả gia tộc họ Phùng ở làng Đông Thái và bắt giam hết thân quyến Phan Đình Phùng nhưng không khuất phục được ông. Không những vậy, Ngô Đình Khả còn chịu trách nhiệm chính trong việc biến khu vực Đài Trấn Bình của triều Nguyễn thành nhà thờ công giáo [việc này trong một chủ đề khác]. Với thành tích trên Nguyễn Thân được chính phủ Pháp tặng Huân chương Bắc đẩu bội tinh hạng ba, sau bị điên mà chết. Ngô Đình Khả được phong tước Thái thường Tự khanh (chính tam phẩm) và chức Thương biện thuộc Viện Cơ mật.”
d.-/ Cụ Lê Hữu Dản viết:
“Theo tài liệu sử, Ngô Đình Khả được Triều Nguyễn thời Pháp thuộc trọng dụng là nhờ công lao giúp Nguyễn Thân tiêu diệt lực lượng chống Pháp của nhà ái quốc Phan Đình Phùng và đặc biệt là đã đào mả cụ Phan (lấy xác cụ đốt thành tro, lấy tro) nhồi vào thuốc súng để bắn cho tiêu tan hài cốt cụ Phan: quả thật là một tên đại thần, đại gian đại ác.”
e.-/ Sự kiện này được nhà viết sử Chính Đạo tức Vũ Ngự Chiêu ghi nhận một cách ngắn gọn trong cuốn Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí với như sau:
“6/1/1895. (Ngô Đình Khả - NMQ) theo Nguyễn Thân đánh dẹp tổ chức Văn Thân của Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh/ Nghệ An. Tháng 12/1895: Ngự Sử Phan Đình Phùng chết bệnh, (Ngô Đình Khả - NMQ) đào mộ Phan Đình Phùng, đốt xác, trộn tro với thuốc súng mà bắn đi.”
9.-/ Những hành động dã man của con chiên Trần Bá Lộc: Sách Nguyễn Trung Trực Biểu Tượng Hào Khí Dân Tộc viết:
“Trần Bá Lộc là người Việt đầu tiên được Pháp bổ nhậm làm chủ quận ở Nam Kỳ, có tài nhưng tự phụ và hiếu sát. Ông thân của Trần Bá Lộc là Trần Bá Phước, gốc người Quảng Bình vào Vĩnh Long dạy học, rồi theo đạo Gia Tô và cưới vợ miền Nam. Chính Lộc lãnh trách nhiệm điều tra rồi trình cho Pháp danh sách 170 người theo ông Nguyễn Trung Trực, sau đó cho lệnh bắt giết tất cả. Cũng chính Lộc được Pháp nhờ tuyển mộ một ngàn lính mã tà, đem về thành Ô Ma tại Sàigòn huấn luyện rồi kéo ra miền Trung dẹp loạn Mai Xuân Thưởng. Không khuất phục được Mai Xuân Thưởng, Lộc lại dở độc kế cố hữu là cho bắt giam mẹ ông và các hương lý, dân làng. Lâm vào tình thế bắt buộc, Mai Xuân Thưởng phải ra gặp Trần Bá Lộc tại một ngôi đình. Lộc dụ ông quy thuận Pháp, những ông khẳng khái bảo: “Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có đầu hàng tướng quân!” Sau đó Pháp xử chém ông tại Bình Định. Lúc chết, ông chỉ mới có 27 tuổi.”
10.-/Hành động dã man của con chiên Ngô Đình Diệm: Cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh và nhiều tác giả khác ghi lại như sau:
“Khi ông làm tri phủ Hòa Đa đã nổi tiếng là tay sai đắc lực của Pháp, lùng bắt và tra tấn các nhà cách mạng rất dã man bằng cách xông lửa nến (đèn cày) dưới ghế ngồi. Ông cho trói chặt người bị lấy khẩu cung vào ghế ngồi, mặt ghế có khoét lỗ ở ngay hậu môn chỗ ngồi, bên dưới đốt ngọn đèn cầy cho lửa xông lên, dần ruột gan, tim phổi người nọ (nạn nhân) bị sấy lửa, khô dần đi, không chịu nổi, dù có khai để chấm dứt cực hình nhưng hậu quả về sau không lường được. Lối tra tấn dã man này, ngay với các bót giam của Pháp, như bót Catinat, cũng chưa dám dùng.”
Nhiều hơn nữa về tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này, xin đọc Tiết Mục “Một Số Những Việc Làm Tàn Ngược Của Ông Diệm” (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1a.php), Chương 63 “Ngô Đình Diệm: Con Người Và Tội Ác, sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.
11.-/ Hành động dã man của bọn lính đạo giáo khu Phát Diệm trong thời Khánh với những hành động cực kỳ dã man Chiến 1945-1954: Bọn lính đạo này nằm dưới quyền chỉ huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh bắt được ba người ngoại đạo ở các làng bên. Chúng cho rằng nạn nhân là Việt Minh và tra tấn họ cực kỳ dã man. Sáng hôm sau, các nạn nhân bị điệu ra cột cờ ở trước sân chợ và bị đánh đập hết sức man rợ với chủ tâm để khủng bố tinh thần những người trong chợ. Sau đó, chúng đâm chết một trong ba nạn nhân này, phanh ngực, móc mật đem hòa với rượu và moi lấy gan đem nướng, rồi ngồi nhậu hả hê với nhau. Sau đó, hai nạn nhân còn lại bị bắn chết, và cả ba nạn nhân đều bị chúng chặt lấy đầu đem xâu vào một cái sào, rồi đem cắm ở bên vệ đường ở đầu làng. Dưới đây là một phần trong bản văn do một chứng nhân tại chỗ kể lại cái hoạt cảnh “trả thù cho Chúa” cực kỳ dã man này của bọn con chiên Phát Diệm:
“Lúc đó, chợ đã họp đông. Đi sau mấy người tù là mấy tên lính giải tù cùng viên thiếu úy trưởng đồn. Cùng đi hộ tống viên trưởng đồn, có một tên mang lon cai xếp (hạ sĩ nhất). Đôi mắt tên cai xếp đỏ ngầu, không hiểu đỏ vì rượu hay đỏ vì say máu người. Đến một cái bệ xây bằng xi măng thì tên cai xếp hô: "Chúng bay quỳ xuống". Có một hai người tù hình như cưỡng lại, không chịu quỳ. Tên cai xếp đến bên lấy báng súng đánh cái chát vào đầu gối. Người tù kêu ối một tiếng rồi quỵ xuống. Mấy tên lính lôi ba người tù đặt quỳ thành hàng ngang. Tên cai xếp lại nói: "Bọn bay muốn được các ông tha để về ăn Tết với vợ con, khôn hồn thì hô theo chúng ông". Tức thì tên cai xếp hô: "Đả đảo Việt Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!" Hình như chỉ có một người hô theo một cách yếu ớt. Hai người còn lại cứ trơ ra. Tên cai xếp bước đến trước mặt một người tù rồi nói to: "Mày là tên đầu xỏ. Cứng đầu thì ông cho một nhát dao về chầu ông bà, ông vải bây giờ. Khôn hồn thì hô theo ông, hô mau đi: "Đả đảo Việt Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!" Người tù này như vận dụng hết sức mình, bèn hô lớn: "Đả đảo bọn Việt gian bán nước! Việt Nam Độc Lập muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!"
Có tiếng lao xao của một vài người đàn ông trong chợ: "Đập bỏ mẹ chúng nó đi". Lại có tiếng hét to: "Cứ giết hết bọn đi lương". Các lời xúi giục như dầu đổ vào lửa, làm tên trưởng đồn tức giận. Hắn rút con dao găm đeo bên hông, bước lại trước mặt người tử tội vừa hô đả đảo, vung dao lên, đâm một nhát, nghe cái "bóp", rồi rút dao ra đâm tiếp thêm mấy nhát, máu ở ngực người tử tội đỏ lòm tuôn ra xối xả. Người tử tội ngã vật xuống nền chợ như cây chuối bị tróc gốc. Tên cai xếp tiến đến thưa với tên trưởng đồn: "Thiếu Úy đi rửa tay đi. Để chúng nó đấy cho em". Tên cai xếp quay sang một tên lính đứng bên, nói như ra lệnh: "Mày chạy đi kiếm cái thau, mau đi!" Tên lính nghe thấy thế liền ba chân bốn cẳng chạy vào chợ. Phút chốc, hắn mang đến một cái thau nhôm nhỏ. Tên cai xếp gật đầu rồi đến bên người tử tội, hắn cúi xuống, đưa dao lên cao rồi đâm mạnh một nhát vào giữa bụng người tử tội. Người tử tội không nhúc nhích, hình như đã chết vì mấy nhát dao của tên trưởng đồn. Tên cai xếp nắm chặt cán dao, rạch một đường dài ở bụng nạn nhân. Đoạn, hắn thò cả hai bàn tay hộ pháp dùng sức mạnh banh toạc da thịt chỗ bụng nạn nhân mà hắn vừa mới rạch, rồi thò tay vào lôi ra một lá gan bầy nhầy còn bám cả máu đỏ tươi. Những tế bào của gan bị va chạm và đứt lìa khỏi thân thể con người nên lớp màng của lá gan trồi lên, trụt xuống tựa hồ như con ếch đang thở. Hắn bỏ lá gan vào trong cái thau nhôm, rồi quay lại hỏi tên trưởng đồn bằng một giọng nịnh bợ: "Còn hai tên kia Thiếu Úy Trưởng Đồn tính xử cách nào?" Tên trưởng đồn chưa kịp trả lời thì vợ hắn ở đâu không biết chạy đến bên, nói như hét vào tai hắn: "Giê-su-ma! Các ông giết người dã man như thế không sợ sa hỏa ngục hay sao?" Phần tôi, tôi cảm động rơm rớm nước mắt. Tôi như cảm thấy một cái lạnh từ sau ót chạy dài xuống xương sống và thấy nằng nặng ở nơi lồng ngực. Vợ tên trưởng đồn nói tiếp: "Muốn xử tử người ta thì bắn một phát cho người ta chết. Đừng làm bậy mà phải tội". Nói xong, chị ta lườm nguýt anh chồng một cái rồi bỏ đi một mạch. Không biết vì sợ lời nói phải của vợ hay vì sợ tội sa địa ngục, tên trưởng đồn ra lệnh cho đàn em mang hai người tử tội còn lại ra ngoài đầu làng để bắn. Rồi hắn bỏ đi, để mặc cho tên cai xếp và bọn lính còn lại muốn làm gì thì làm.
Hai người tử tội được ba tên lính dẫn đi. Sau khi tên trưởng đồn đi khỏi, tên cai xếp ra vẻ ta đây làm lớn. Hắn đằng hắng lên giọng: "Thằng nào đi lấy cho tao chai rượu và mượn một cái lò than của chị bán bánh đa mang lại đây mau". Hai tên lính đứng gần đấy có vẻ mặt dữ tợn. Một tên có cái sẹo lớn nơi má, hình như là lốt chém. Tên kia thì mắt lác. Cả hai tên cùng chạy vào chợ. Chỉ một thoáng, một tên cầm trên tay hai chai rượu trắng, tên kia bê cái thau có than hồng đang cháy, bên trên có cái vỉ sắt, rồi đặt trên một cái bệ trống. Mặt tên cai xếp lúc ấy trông rất cô hồn. Hắn vẫn tỉnh táo, chứ chưa say vì lúc đó hắn chưa uống một ngụm rượu nào. Hắn lấy con dao găm lẻo cái gan ra thành nhiều miếng, đặt lên chiếc vỉ sắt rồi ra lệnh cho một tên lính quạt cho than cháy đỏ. Còn cái mật người, hắn khẽ lấy mũi dao dí dí cho thủng lỗ rồi nhét cái mật vào chai rượu. Rồi hắn dùng một tay vừa bịt miệng chai vừa xóc xóc chai cho nước mật bắn tung ra. Màu đen của mật hòa lẫn với rượu trắng biến chai rượu thành một thứ màu xám không ra xám, xanh không ra xanh, đen không ra đen. Mặt hắn vênh vênh, váo váo. Hắn thản nhiên xem làng nước không ra gì vì ở đây không ai lớn bằng Cha Tổng của hắn. Cha đã xuống lệnh giết thì hắn có quyền muốn giết bằng cách nào là tùy ý ở bọn hắn, miễn là giết chết được Việt Minh thì thôi! Ngoài Cha Tổng và tên trưởng đồn ra, lúc này hắn không còn kiêng sợ ai nữa. Hắn đưa chai rượu lên uống ừng ực. Mắt hắn đỏ hơn trước. Hắn gọi bọn đàn em lại uống với hắn, nhưng chỉ có hai tên vừa rồi đến để uống chia sẻ chiến công của bọn hắn. Uống xong, bọn hắn bốc mấy miếng gan người bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến như con cá sấu nuốt mồi. Mùi khét lẹt của gan người tanh nồng trải ra làm tôi muốn nôn, nhưng phải ráng nuốt cái nước chua chua ở cổ họng xuống, sợ bọn đầu trâu mặt ngựa kiếm chuyện vì chúng đang say máu người. Không chịu nổi cảnh tượng vừa xẩy ra, tôi từ từ rút lui. Ra khỏi làng bỗng nghe nhiều tiếng súng. Tôi tự nhủ thầm: "Lại thêm hai mạng người vô tội gục ngã. Tôi những tưởng bọn hắn sẽ tha cho người hô đả đảo theo bọn hắn. Không ngờ chúng giết tất cả, không chừa một ai". Ba bốn hôm sau, trên đường trở về, đi qua làng thì thấy ba cái đầu lâu người được xuyên vào ba cái sào tre được cắm ngay bên vệ đường. Ruồi nhặng đã bắt đầu bu lại. Tôi cắm đầu bước nhanh, đi cho khuất cảnh tượng hãi hùng đó. Ôi! Thật là dã man! Không còn tình người nữa. Lương tâm con người ở đâu? Đức Chúa Trời của họ dạy nhân từ, bác ái, thương người bằng cách ấy hay sao? Lòng lành của những người Gia Tô là như vậy đó!”
12.-/- Những hành động tra tấn cực kỳ dã man của tín đồ Ca-tô trong ngành mật vụ, công an và cảnh sát trong chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm. Chuyện này được triết gia kiêm học giả Bertrand Russell ghi những lời kể lại của một nạn nhân có tên là Nguyễn Thị Thơ (người Thủ Đầu Một) nơi các trang 166-177 trong cuốn War Crimes in Vietnam (New York: George Allen & Unwin Ltd. 1967).Chuyện này được ông Chu Văn Trình chuyển dịch bản văn này và ghi lại trong cuốn Hội Chứng Việt Nam. Dưới đây là một vài đoạn nói về những hoạt cảnh man rợ này:
“Rắn độc được nhét vào âm hộ của phụ nữ. Nhiều phụ nữ bị đau đớn đến cực độ rồi chết. Viên chức chính quyền sử dụng chai vỡ đâm mạnh vào âm hộ phụ nữ đến bất tỉnh và chết. Những tên cai tù dùng đinh sắt đóng vào đầu các ngón tay tù nhân. Rồi chúng băng các ngón tay bị thương và nhúng vào gasoline (set xăng) rồi châm lửa đốt. Chúng bơm nước vào mồm vào mũi. Nước trộn lẫn với nước mắm và ớt cực cay. Chúng cũng dùng sà bông và chất “Crezil” loại thuốc rửa ống cống cực mạnh để rửa cầu tiêu sát hại vi trùng. Những chất ấy đốt các màng trong cơ thể. (Poisonous snakes were put in the vaginas of the women. Women died agonizingly. The authorities used broken bottles, which forced into the vaginas of the women. The women became unconscious and usually died. The guards used iron nails, which they drove under the finger-nails of all fingers of the prisoners. They, then bandaged the fingers, soaked them in gasoline and set them alight. They pumped water into our mouths and noses. The water was mixed with fish sauce which was extreme spiced. It burned the membrane.)
Tra tấn em bé tuổi:
“Tôi có thể nói thế nào với ông về vụ này?
Có nhiều người từng nói đến vụ chúng bắt hụt ông Kiểm, nên chúng bắt bà vợ và đứa con gái nhỏ của ông. Bà vợ ông Kiểm bị tra tấn trong nhiều giờ nhưng không phát hiện được gì về người chồng. Chúng mang một thùng chứa đầy nước và đặt đứa con gái Nga 5 tuổi vào thùng nước và nhận chìm đứa nhỏ, rồi chúng đánh mạnh ngoài thùng. Áp suất nước làm chảy máu tai, mũi và mồm đứa nhỏ. Tôi nhìn thấy điều này bằng chính mắt tôi. Theo lời bà Thơ là nhân chứng bất đắc dĩ. Có 150 phụ nữ bị nhốt trong một căn phòng rộng 12 ft, dài 21 ft. Chúng tôi không có cầu tiêu. Chúng đặt một thùng trong phòng (để làm cầu tiêu). Mùi hôi thối tràn ngập trong một nơi (căn phòng) bé nhỏ. Hầu hết những kẻ sống sót khi được thả ra đều trở thành vô dụng, không đi được. Họ bị bệnh thần kinh đau đớn và bất tỉnh định kỳ. (Almost all those who survived and were eventually released are now invalids, incapable of walking. They suffer from nervous diseases and from periodic loss of consciousness.)
Ngày đầu tiên tôi bị tra tấn liên tiếp 8 giờ, chúng thay phiên nhau tra tấn tôi bằng nhiều kiểu. Trước nhất, chúng đánh tôi bằng cây gậy gỗ hình chữ nhật, bốn cạnh sắc. tôi bị đánh vào ngực và vào lưng đến chết ngất. Khi tỉnh dậy, tôi bị trói bằng lạt tre chắc và sắc. Chúng treo ngược hai chân lên trần nhà. Mỗi cái đấm làm tôi tưởng như chân tay tôi rời khỏi cơ thể. Sự đau đớn và phản ứng của hệ thần kinh làm tim tôi đau nhói. Trận đòn thứ nhất kéo dài hơn một giờ.
Khi tôi hồi tỉnh, chúng lại đánh tiếp. Khi chúng cởi trói, hạ tôi xuống sàn nhà, tôi đứng không nổi. Chúng lột hết quần áo và trói chặt tôi vào một cái bàn. Chúng bịt miệng và mũi tôi bằng một tấm vải mỏng. Chúng dùng ống nước bằng cao su bơm nước vào mồm và mũi tôi. Tôi bị ngộp thở và bụng đầy nước, dạ dầy trương phồng lên. Lúc đầu, chúng chỉ dùng nước, sau chúng trộn nước lạnh với nước mắm và nước sà bông. Trận tra tấn (kiểu đi tầu ngầm) này kéo dài 40 phút. Rồi tôi cảm thấy tất cả tối sập. Tôi bị ngất. Chúng ép bụng tôi và lắc mạnh đầu làm cho nước trong bụng ộc ra tại mồm và mũi. Tôi hồi tỉnh.”
13.-/ Một chứng tích tội ác dã man của chế độ đạo phiệt Ngô Đình Diệm do tên con chiên Ngô Đình Cẩn là thủ phạm: Chứng tích này có danh xưng là “Khu Nhà Giam Chín Hầm” dùng để giam người bị chính quyền bắt giam vì nhiều lí do khác nhau. Những bản văn dưới đây của các nhà sử học và chứng nhân tại chỗ cho chúng ta thấy rõ những hành động tội ác của anh em Nhà Ngô và băng đảng con chiên Ki-tô. Xin mời đọc bài mô tả địa ngục này trong bài "Chín hầm địa ngục trần gian thời Ngô Đình Diệm" của tác giả Ngô Diệp đăng trên sachhiem.net:
“Chín hầm địa ngục trần gian thời Mỹ-Diệm: Chúng tôi đã được biết đến “địa ngục trần gian Chín Hầm” qua báo chí và nghĩ: Có lẽ nó không khủng khiếp như những địa ngục Sơn La, Hỏa Lò (thời Pháp thuộc), Côn Đảo, Phú Quốc (thời ngụy quyền Sài Gòn), như chúng tôi đã từng mục kích. Bởi, dù sao, nó cũng chỉ là nhà ngục địa phương! Nhưng, khi đến khu di tích lịch sử Chín Hầm, chúng tôi thật sự bất ngờ trước sự tàn bạo, quái đản của bọn cai ngục ở đây.
Khu di tích nằm về phía tây nam, cách thành phố Huế 6 cây số. Nhà tưởng niệm-Tượng đài bất khuất được xây dựng ngay cổng vào khu tù ngục trước. Ở đây, ngoài bản đồ, sa bàn chỉ dẫn bao quát còn lưu giữ nhiều tư liệu, hiện vật quý về quá trình hình thành, xây dựng khu tù ngục quái gở Chín Hầm; những tội ác cực kỳ man rợ của Ngô Đình Cẩn và thuộc hạ do chính những nhân chứng sống sót từ ngục tù này kể lại; những tấm gương kiên trung, bất khuất của đồng bào, chiến sĩ bị giam hãm đày đọa v.v…
Địa ngục này là sản phẩm tội lỗi của Ngô Đình Cẩn. Y là em trai Ngô Đình Diệm, con thứ tám của Ngô Đình Khả. Tên thường gọi ở nhà của y là cậu Út - Út Cẩn. Trong sáu anh em trai nhà họ Ngô, Ngô Đình Cẩn là người ít học nhất, tính tình lại thất thường. Trong khi anh em bươn chải làm chính trị, y thúc thủ ở lại quê trông nom hương hỏa, phụng dưỡng mẹ già, sống cuộc đời của tên cường hào địa phương. Khi Ngô Đình Diệm làm Tổng thống của cái gọi là “Việt Nam cộng hòa”, tính chất lưu manh, cường bạo của Ngô Đình Cẩn được dịp bùng phát. Y tự xưng là lãnh chúa miền Trung, điên cuồng đàn áp những người cách mạng, yêu nước; những người khác chính kiến, tôn giáo; cướp bóc trắng trợn tài sản của nhân dân... Khét tiếng tàn bạo nhất trong bộ máy của Ngô Đình Cẩn là mạng lưới mật vụ tình báo. Dưới trướng chúng có hàng loạt lò giam giữ tra tấn như: Lao xá Ty công an, trại Tòa khâm, trại Thừa Phủ, nhà tù Long Thọ, trại đồn Mang Cá nhỏ… Đỉnh điểm tội ác là khu biệt giam Chín Hầm.
Khu Chín Hầm nằm trên một ngọn đồi thông xa dân cư. Nguyên trước đây là kho chôn cất vũ khí của người Pháp. Tám kho và một lô cốt bốt gác xây cất vào lòng núi, rải rác quanh đồi. Tường kho bằng bê tông cốt thép dày hơn 40cm. Căn hầm lớn nhất có diện tích 85m2, căn nhỏ nhất 41m2. Ngô Đình Cẩn cho sửa lại các căn hầm này làm trại giam. Cấu trúc bề ngoài căn hầm không thay đổi, chúng chỉ gia cố lại cửa thép, lưới sắt nắp hầm. Trừ hầm số 5, các hầm khác ngăn thành xà lim nhỏ. Theo lời kể của nhân chứng, các căn hầm này khi trời mưa, nước ngập đến thắt lưng; ngày nắng, nóng hầm hập như trong lò than; trời rét, lạnh cắt da cắt thịt. Người bị giam sống chung với chuột, dòi, muỗi mòng…
Mỗi căn hầm là một ngôi mộ chôn những người sống đúng cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Các căn hầm số 1, số 6, số 7, số 8 giam giữ những tù nhân chúng gọi là cộng sản, Việt cộng nằm vùng. Căn số 3 giam cầm những công thương gia giàu có; chúng vu oan cho họ, bắt giữ tra tấn, buộc gia đình phải bỏ tiền, vàng ra chuộc thân. Căn số 3, 4 nhốt những người đối lập, những quan chức sĩ quan của chính quyền đương nhiệm không tuân theo lệnh Ngô Đình Cẩn. Căn số 5 giam giữ các tăng ni, phật tử, học sinh sinh viên phản kháng chế độ độc tài gia đình trị họ Ngô. Căn này không ngăn thành xà lim, có thời điểm, chúng dồn hàng trăm người vào đây, đến nỗi họ chỉ có thể đứng sắp lớp với nhau. Vì thế, nhiều người đã chết vì ngộp thở. Căn số 9 là bốt gác đồng thời cũng là nơi tra tấn, khảo cung những người chúng cho là có tội. Khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, nhân dân đã phẫn nộ kéo đến phá tan tành khu biệt giam, lùng bắt Ngô Đình Cẩn và chân tay của y.
Ngày nay, các căn hầm chỉ còn lưu lại các bức tường bê tông cốt thép để làm chứng tích tội ác. Ban quản lý khu di tích lịch sử đã dựng lại nguyên dạng căn hầm số 8 để người đời có thể hình dung phần nào tội ác “trời không dung, đất không tha” của tập đoàn phản động Diệm-Nhu-Cẩn. Cánh cửa sắt nặng hàng tấn của căn hầm mở ra, đồng chí trưởng ban quản lý khuyên chúng tôi chờ một lúc để không khí oi nồng trong căn hầm thoát bớt. Hầm có diện tích 72m2, một lối đi ở giữa rộng chừng 1m, hai bên là dãy xà lim, mỗi xà lim y như chiếc quan tài, chiều dài 1,8m, rộng 0,8m; một tấm ván lót sàn, một chiếc xô tôn nhỏ để đi vệ sinh cùng dây xích, cùm kẹp. Cả căn hầm chỉ có một lỗ thông hơi hình vuông, mỗi bề hơn 20cm. Trong các xà lim có hình nhân với đủ kiểu hành hạ như khi họ bị giam cầm: Nằm quỵ úp mặt xuống sàn, đứng khom lưng, ngồi kẹp giữa hai gối, treo lơ lửng… Chúng tôi chỉ vào hầm quan sát khoảng mười lăm phút mà tay chân bủn rủn, đầu óc như muốn vỡ tung, đủ biết sức chịu đựng của các chiến sĩ bị giam giữ ở đây thật phi thường.
Ông Nguyễn Văn Thành-người Hà Nội, một cựu tù Côn Đảo khi đến Chín Hầm đã thốt lên: “Bản thân tôi đã đối mặt với kẻ thù gần 11 năm ở các địa ngục: Bạch Đằng 3-Chí Hòa rồi chuồng cọp, hầm đá Côn Đảo, nhưng tôi phải rùng mình trước sự tàn bạo cùng cực của kẻ thù đối với đồng bào, đồng chí, đồng đội của tôi ở khu biệt giam Chín Hầm này!”.

Đốt nén hương trầm nghiêng mình trước anh linh của đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuống ở Chín Hầm, chúng tôi lòng tự nhủ lòng cố gắng sống sao cho xứng đáng với sự hy sinh cao cả và vô giá ấy”.

VATICAN:CH63-1a NGÔ ĐÌNH DIỆM: Con Người và Tội Ác (Nguyễn Mạnh Quang) (sachhiem.net)

"...Tau báo cho tụi mầy
Nếu không đi nhà thờ
Sẽ cho vô " Bình Hòa" (*)...🤣"
(*) Lò Thiêu Bình Hưng Hòa



 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét