Tìm kiếm Blog này

Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

CUỐI TUẦN MỜI CÁC BÁC VÀO THẢO LUẬN CHO VUI: LINH HỒN TỪ ĐÂU MÀ CÓ ?

Người Công giáo công nhận có linh hồn, người các tôn giáo khác và không tôn giáo cũng đa số nghĩ vậy.
Có điều, người Công giáo cho rằng, sau khi chết đi thì hoặc là lên Nước trời ăn chơi nhảy múa với chúa, tận hưởng cuộc sống sung sướng đời đời nếu sống tốt (nhưng phải luôn tôn thờ ông ấy), hoặc là bị đầy xuống địa ngục nếu sống ác hay sống tốt nhưng không tôn thờ chúa.
Dân số thế giới ngày càng tăng cao. Vậy những linh hồn mới này ở đâu ra khi linh hồn tốt thì cắm chốt ở nước trời cùng ông chúa rồi?
Các câu trả lời giả thiết:
1. Các hồn ác ở địa ngục sau thời gian cải tạo được chuyển hóa.
Nếu vậy thì lại quay sang nhân quả, sinh tử luân hồi chuyển kiếp bên Phật giáo.
2. Chúa thổi các linh hồn mới theo dung nhan và tâm hồn ông ấy.
Nếu vậy thì linh hồn chúa tốt và dơ bẩn lẫn lộn và chẳng có gì gọi là thần thánh vì rất nhiều những linh hồn ấy không kháng cự được xúi giục của satan mà làm điều ác, hoặc chính linh hồn ấy ác sẵn.
3. Các linh hồn đó tự nhiên mà có.
Nếu đã tự nhiên mà có thì cũng chẳng cần phải xu nịnh, tâng bốc chúa vì chúa cũng chỉ tự nhiên mà có, chúa không tạo ra linh hồn thì quyền bình đẳng như nhau. Chúa lấy quyền uy năng lực vô biên bắt các linh hồn kia chúc tụng, phụng sự thì hóa ra chúa ỷ mạnh hiếp yếu, cô hồn các đảng sao.
4. Trong một video của trang Tinh Hoa hay Pháp luân công gì đó, mình không nhớ rõ, cho rằng đa số con người bây giờ là do thiên thần giáng thế.
Vậy hóa ra thiên thần của chúa cũng có thiên thần này nọ, tốt xấu lẫn lộn, hoặc các thiên thần quá yếu đuối và kém cỏi nên người xấu rất nhiều và cứ cố việc gì là không tự mình giải quyết được, luôn phải gọi điện lên chúa cầu xin van nài khóc lóc, hoặc là thiên thần của chúa quá kém nên bị Satan nó dụ. Mà ngàn đời nay, sự ác luôn hiện hữu mà chúa vẫn chưa chịu nâng cấp cho thiên thần. => Chứng tỏ chúa bị tụt hậu về kiến thức và công nghệ so với Satan nên ngày càng có nhiều người không tôn thờ và quay lưng lại với chúa, nếu chúa không tỉnh ngộ tự trao rèn, học tập nâng cao trình độ chuyên môn thì chúa sẽ thất nghiệp và chết đói trong một tương lai rất gần. Không ai tôn thờ dâng cúng thì chúa chỉ còn cách bốc cứt mà ăn để sinh tồn.
5. Các bạn không tôn giáo hay có tôn giáo, gồm cả các bạn công giáo xin cho biết các giả thuyết khác cũng như bình luận thêm.
https://www.facebook.com/groups/1993155514291442

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2020

NHỤC CHO MẤY THẰNG LINH MỤC

Kính gởi đức cha Vinh sơn Nguyễn Văn Bản!
Hôm nay con xin mượn 1 Đoạn trong bài thơ:"Mùa Xuân nhớ bác" của thi sĩ Phạm Thị Xuân Khải để tả về những gì con nhận được từ ngài.
"Có mắt giả mù
có tai giả điếc
Thích nghe nịnh hót
Ghét bỏ lời trung
Trấn áp đấu tranh
Dập vùi khốn khổ"
Con-1 kẻ ngoại đạo,bị ngài miệt thị với 2 từ lương dân,nếu đi đến đâu,có ai đó hỏi ngài về chuyện cha Hùng có vợ và có con,ngài sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm của con với các từ:ganh tỵ,vu khống và bịa đặt....
Vì cái biên bản này,cái biên bản vu khống vợ chồng con ăn cắp chó.Được ông chánh đọc trước hàng ngàn giáo dân vào lễ nhất chúa nhật ngày 15.03.2020 .Còn được ông cha antôn Nguyễn Phi Hùng đăng lên trang Giáo xứ Nghi Xuân với hàng ngàn lượt chia sẻ,hàng triệu lượt xem....
Nếu đây là cái biên bản "ma"mà cha Hùng giả danh đức cha chỉ đạo,theo lẽ thường thì sau 1 đến 2 tuần,Đức cha phải trực tiếp chỉ đạo làm 1 cái biên bản khác để xác minh lại sự việc,được đăng công khai lên trang Giáo xứ Nghi Xuân để bà con giáo dân không miệt thị, khinh thường vợ chồng con là người lương dân ăn cắp chó.
Con sẽ cho ngài thêm 1 tuần,để ngài tự ra tay "Rút" cha Hùng về nơi thuộc về.Còn không con sẽ dùng chính biên bản này kiện ngài đã vu khống vợ chồng con ăn cắp chó.
Thêm 1 việc mà có rất nhiều người thắc mắc với con là:Tại sao chuyện này phải đưa lên mạng xã hội?Để rồi mọi người hiểu lầm con là phá đạo,con không hề có ý gì ngoài việc tố cáo với đức cha về mối quan hệ bất chính của ông cha Antôn Nguyễn Phi Hùng và Hà Trần.sự việc này con đã trình với đức cha từ ngày 02.12.2019,Tính đến nay đã hơn 5 tháng nhưng con vẫn chưa nhận được 1 lá thư phúc đáp,1 cuộc gọi,1 tin nhắn từ ngài.Mà ngài cũng rõ,cái gì đưa lên mạng cũng phải làm cho ra trắng đen,con rất ức chế vì đi đến đâu mọi người nói con là thứ lương dân ăn cắp chó,không bằng người ta rồi ganh tỵ,vu khống....con phải cá cược với chính mạng sống của mình,lỡ leo lên "lưng cọp"Thì phải giật cho tới,giật khi nào con cọp"chết"mới thôi.
Hôm nay con nói it,mong ngài hiểu nhiều và sớm ra tay trừng trị ông cha Antôn Nguyễn Phi Hùng,để mọi chuyện kết thúc,không để mang tai tiếng ảnh hưởng các linh mục thánh thiện và bà con giáo dân giáo xứ Nghi Xuân Giáo Họ bình an được bình an đúng như cái tên vốn có của giáo họ.

https://www.facebook.com/groups/1993155514291442

Tâm sự loài chiên Việt: Viết Cho Người Muốn Lấy Chồng Ngoại Đạo...

Xin chào mọi người, hôm nay mình muốn chia sẻ với các bạn về chủ đề hôn nhân với người ngoại Đạo. Đây là câu chuyện của mình, và mong muốn qua bài viết này, các bạn nữ đang yêu người ngoại đạo có thêm góc nhìn về cuộc sống hôn nhân sắp tới để ra được quyết định tốt nhất cho bản thân mình.

Minh xin giới thiệu mình năm nay 35 tuổi, 9 năm hôn nhân, 3 con nhỏ. Mình chắc cũng nhỏ tuổi hơn rất nhiều anh chị và cũng lớn hơn nhiều em có mặt trong group. Nên để tiện cách viết, mình sẽ xưng "tôi" nhé.
1. GẶP GỠ: Tôi và chồng là bạn học từ cấp 2, cũng có thể gọi là bạn thanh mai trúc mã. Chúng tôi sinh ra và lớn lên ở cùng một xã miền Bắc Bộ. Anh có tình cảm với tôi khá sớm, ngay từ khi học lớp 9. Tôi biết nhưng kệ, vì lúc đó anh thực sự không hề có điểm gì thu hút tôi. Thế nhưng chứng kiến sự theo đuổi của anh trong im lặng rất nhiều năm thì tôi lại cảm động và đồng ý làm bạn gái anh. Sau một thời gian chúng tôi quyết định kết hôn. Anh là người ngoại đạo, còn tôi thì không muốn ép anh phải theo đạo chỉ để cưới vì tôi hiểu Đức Tin không thể có theo con đường ấy. Tuy nhiên điều kiện của tôi là con cái sinh ra sẽ đều được rửa tội và theo đạo mẹ. Điều này làm anh không hài lòng vì anh muốn để con cái tự do lựa chọn vào năm các con 18 tuổi. Đương nhiên là tôi không đồng ý, vì tôi hiểu nếu không nuôi dưỡng Đức Tin cho con từ ngày thơ ấu, thì cơ hội để con lựa chọn Đạo mẹ để theo chắc chưa đầy 1%. Cuối cùng để được kết hôn anh cũng đồng ý. Chúng tôi tiến hành thông báo cho gia đình.
2. SỰ NGĂN CẢN CỦA GIA ĐÌNH: Mẹ tôi ngăn cản trong sự quyết liệt vì hôn nhân khác đạo. Mẹ lo sợ sau khi kết hôn, con cái tôi không được theo đạo. Rồi lỡ tôi có chuyện gì mất sớm thì con cái tôi mất đạo hết. Tôi chết rồi ai sẽ cầu nguyện cho linh hồn tôi hàng ngày? Lúc đó tôi nghĩ rằng mẹ tôi quá tiêu cực. Tôi tự tin vào tình yêu và vào lời hứa nên tôi rất buồn khổ khi mẹ như thế. Bố thấy tôi khóc lóc thì thương nên thuyết phục mẹ. Rồi chúng tôi học giáo lý và làm phép giao. Tôi nhớ khi đem thiệp mời đến đưa chị sếp cũ của tôi. Anh chồng chị sếp nói, sau này em vác Thánh Giá nặng lắm đấy. Tuổi trẻ ngông cuồng, tôi lúc đó nghĩ rằng mình có khả năng thay đổi được suy nghĩ và cứu vớt một linh hồn về với Chúa.
3. SÓNG GIÓ: Mọi chuyện tốt đẹp vào 2 năm đầu sau khi kết hôn. Nhưng sau đó, sóng gió ập đến. Lúc này tôi mới thấm thía câu nói, hôn nhân là nấm mồ của tình yêu. Tình yêu có tuổi thọ chứ không phải là mãi mãi.
Tôi sinh các con vào đúng những thời điểm kinh tế khó khăn, mâu thuẫn gia đình xảy ra chồng chéo. Tôi cố gắng sắp xếp để đưa con đi rửa tội. Đứa thứ nhất chồng tôi tham dự lễ rửa tội cho con trong tâm trạng không vui vẻ gì, đứa thứ 2 anh đứng ngoài sân nhà thờ chỉ để chờ đưa đón về nhà. Đứa thứ 3 thì hoàn toàn vắng mặt. Việc tôi đưa các con đi rửa tội và dạy dỗ việc đạo cho các con khiến cho tình cảm giữa tôi và gia đình chồng sứt mẻ rất nhiều. Các thánh lễ Chủ Nhật tôi cứ hàng tuần bồng bế các con đi, đúng cảnh nheo nhóc trên chiếc xe máy. Rồi lễ Giáng Sinh, tuần thánh, lễ Phục Sinh...cũng chỉ có mấy mẹ con bên nhau. Các bạn chưa trải qua những giây phút ngồi dự thánh lễ mà nước mắt cứ chảy ra ầng ậc. Sự mạnh mẽ của tôi tiêu tan hết khi ở trong nhà của Chúa. Có những thời điểm chúng tôi ly thân, mỗi người ở một nơi. Lý do nhiều nhưng xung khắc tôn giáo cũng là một trong những nguyên nhân chính. Lúc đó ngày nào đi làm về tôi cũng ghé đến Mẹ ở nhà thờ Huyện Sĩ. Tôi đến với Mẹ để khóc than thoải mái bên Mẹ, rồi sau đó lại lau nước mắt trở về mạnh mẽ bên bố mẹ của mình. Tôi ko dám để bố mẹ tôi biết tâm hồn mình đang đau đớn dường nào vì đây là con đương tôi đã chọn.
Thỉnh thoảng tôi cũng về quê chơi, đương nhiên là ở nhà chồng. Và tôi bị nhắc nhở khi đem khung ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ bằng bàn tay để ở trong phòng của mình, bị nhắc nhở khi làm dấu cho các con trước khi ăn cơm, bị ánh mắt khó chịu của mẹ chồng khi tôi đeo dây hình Thánh Giá. Có một năm ngày lễ tro đúng mùng 3 tết, trùng với ngày nhà chồng làm lễ cúng đầu năm. Nhà chồng tôi làm lễ cúng đầu năm rất lớn, rất nhiều đầu việc phải làm. Tôi do dự đi dự thánh lễ hay không, nhưng sau đó tôi hiểu rằng nếu hôm nay tôi từ bỏ thánh lễ vì lý do này thì sau này tôi sẽ còn từ bỏ thánh lễ nhiều hơn nữa. Rồi tôi sẽ mất đạo, các con tôi sẽ mất đạo. Thế là sau khi thu xếp việc bếp núc đầy đủ để sẵn đó cho mọi người ở nhà làm lễ cúng, tôi gửi đứa nhỏ nhất ở nhà cho chồng rồi đưa con lớn đi dự thánh lễ. Tối buổi hôm mùng 3 tết năm đó mẹ chồng tôi đã rất lớn tiếng với tôi, nhấn mạnh việc con gái lấy chồng phải theo chồng. Việc Đạo của tôi chỉ để khi nào rảnh rỗi và không được ảnh hưởng đến ai. Đương nhiên tôi không thể im lặng. Tôi nói Đạo của con là quan trọng nhất sau đó mới đến những thứ khác. Mẹ shock nhưng tôi cũng chịu. Biết sao bây giờ, con phải cứu lấy linh hồn con đã chứ.
4. LÀM PHÉP NHÀ, TREO ẢNH TƯỢNG: Chúng tôi có được căn hộ đầu tiên, ngay khi nhận nhà tôi mời Cha sở đến để làm phép nhà cho tôi trong đơn sơ, chỉ có Cha, tôi và cậu em hàng xóm. Nhà không có bàn thờ Chúa, mấy cha con chỉ cầm sách cầm nến đọc kinh cầu nguyện. Tôi nuốt những giọt nước mắt tủi thân vào trong lòng, cầu xin Thiên Chúa xin Mẹ nâng đỡ tâm hồn yếu đuối và mong manh của mình.
Rồi ngày chúng tôi chính thức dọn đồ về nhà mới, nhà chồng tôi sắp xếp thầy cúng đến làm lễ cúng cả buổi sáng. Tượng ảnh Chúa tôi chỉ có thể để trong phòng ngủ mà thôi.
5. TƯƠNG LAI CỦA CÁC CON: Bên nhà chồng tôi cũng lo lắng vì các con của tôi nếu theo Đạo thì không phát triển được sự nghiệp ở chế độ hiện tại. Đơn cử như cấp dưới của anh chồng tôi chỉ vì có Đạo mà mãi chỉ làm vị trí quản lý bé nhỏ trong khi đồng lứa thì các bạn bè lên sếp lớn hết rồi. Mọi người khuyên nhủ tôi hãy để cho những đứa con có đường sự nghiệp thênh thang, đừng hướng chúng có Đạo.
Giờ đây trải qua rất nhiều sóng gió, tôi càng thấm thía những lo lắng của mẹ tôi. Bởi vậy các bạn ah, đừng coi nhẹ những lời cảnh báo của mọi người yêu thương bạn. Hãy cố gắng để tâm và suy nghĩ trước khi quyết định. Có những người có được cuộc sống rất hạnh phúc trong hôn nhân khác Đạo, nhưng con số người đau khổ thì nhiều hơn n lần. Khi yêu con tim lấn át lý trí, con mắt trở nên mù loà. Hãy cẩn thận.
-Thoan Vũ-
https://www.facebook.com/groups/1993155514291442

SÁCH KINH CÔNG GIÁO VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ (5)

5. NHỮNG TÁC HẠI NGUY HIỂM CỦA CÁC SÁCH KINH CÔNG GIÁO
Để trưng dẫn các bằng chứng cụ thể về những tác hại nguy hiểm do các sách kinh nguyện Công Giáo gây ra cho tinh thần của giáo dân Việt Nam, chúng tôi chọn hai cuốn sách kinh nguyện tiêu biểu sau đây:
1. Sách kinh nguyện NHỰT KHÓA của tổng giáo phận Sài gòn, có sự phê duyệt của TGM Nguyễn Văn Bình ngày 19.3.1971, là sách kinh nguyện chính thức của cả Tổng giáo phận Sài gòn bao gồm tập thể giáo dân toàn Miền Nam.

2. Sách TOÀN NIÊN KINH NGUYỆN của hai địa phận Bùi Chu và Hà Nội in chung thành một cuốn, do Cơ Sở Dân Chúa – P.O Box 1419 Gretna, LA 70053, USA xuất bản. Địa phận Bùi Chu là cái nôi của Công gíao Việt Nam và địa phận Hà Nội nay đã thành Tổng giáo phận bao gồm tập thể giáo dân miền Bắc Việt Nam. Trong những lần xuất bản trước đây tại Việt Nam, những sách này đã được giám mục Hồ Ngọc Cẩn và các giám mục quản nhiệm khác duyệt xét cẩn thận. Trong lần xuất bản tại hải ngoại này, Linh Mục Việt Châu là chủ nhiệm nguyệt san Dân Chúa đứng ra xuất bản và viết lời giới thiệu với các giáo dân tại hải ngoại.
Do vậy, hai sách kinh nguyện này thiết tưởng cũng đủ là đại diện cho toàn thể các sách kinh nguyện của Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Để tiện việc trích dẫn, chúng tôi dùng chữ tắt NK để chỉ sách kinh nguyện Nhựt Khóa và chữ TNKN để chỉ sách Toàn niên Kinh nguyện, số theo sau những chữ tắt nói trên là số trang trong các sách dẫn chiếu.
Những điều trình bày sau đây chỉ là những nét điển hình về tính chất phản văn hóa dân tộc và những tác dụng đầu độc tinh thần trong nội dung của một số bài kinh nguyện mà thôi. Hiện nay tại hải ngoại có nhiều tiệm sách Việt ngữ cũng có bày bán những sách kinh nguyện tương tự, chúng tôi đề nghị quí vị có quan tâm đến vấn đề này có thể mua về nghiên cứu để kiểm chứng và tìm hiểu thêm.
1. Đề cao bạo lực :
Người Công Giáo quan niệm Thiên Chúa là một vị thần chiến tranh luôn luôn đứng cùng phe với họ để giúp họ tiêu diệt những người chống họ hoặc không theo họ. Trong các lễ Misa ở nhà thờ, không bao giờ thiếu Kinh Nguyện Thánh Thể, trong đó có câu : "Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên chúa các Đạo Binh. Đất trời đầy vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời” : (NK 581). Quan niệm này phát xuất từ đạo Do Thái của Moses qua chuyện kể trong Cựu Ước Exodus về việc dân Do Thái nổi loạn chống lại Ai Cập để thoát vòng nô lệ và tìm đến Đất Hứa. Người Do Thái xưa thường ca ngợi Thiên Chúa là Yahweh Sabaoth có nghĩa là Thiên Chúa của các đạo binh (God of Armies). Đây là một quan niệm ngây ngô của những bộ lạc bán khai về thần linh. Bà Karen Amstrong, nguyên là một nữ tu Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan, đã viết về quan niệm này trong tác phẩm bestseller của bà như sau : "Đây là một Thiên Chúa tàn bạo, thiên vị và hiếu sát, một vị thần chiến tranh hay nói đơn giản là vị thần của bộ lạc. (This is a brutal, partial and murderous god, a god of war... and is simply a tribal deity – A History of God, p.19).
Tâm lý chung của con người là luôn luôn muốn mình trở nên giống như thần tượng mà mình tôn thờ. Quan niệm về Thiên Chúa như một hung thần chiến tranh mà người Công Giáo ngưỡng mộ dần dần sẽ hình thành nơi tâm hồn họ xu hướng ham chuộng bạo lực. Lịch sử bành trướng đạo Công Giáo là lịch sử chiến tranh đẫm máu kéo dài qua nhiều thế kỷ đã chứng minh Công Giáo là một tôn giáo của bạo lực. Đây cũng là nét đặc trưng phản ảnh tính chất văn hóa phi nhân bản (inhumanity) của đạo này. Những bài kinh ca ngợi bạo lực đã làm xói mòn bản chất nhân hậu hiền hòa nơi những người giáo dân vốn xuất thân từ những nông dân chất phát Việt Nam. Điều này giải thích cho ta hiểu lý do vì sao mọi người Công Giáo đều mất gốc và đã tự biến thành những kẻ lạc loài trên quê hương Việt Nam.
2. Công Giáo Việt Nam hùa theo chủ trương diệt chủng Do Thái của Đế quốc La Mã :
Ai cũng biết đế quốc La Mã, chứ không phải dân Do Thái, bắt và đóng đinh Jesus trên thập giá vì vào thời đó nước Do Thái bị La Mã đô hộ nên quyền xét xử các tội nhân bản xứ hoàn toàn thống thuộc chính quyền của mẫu quốc. Đặc biệt việc áp dụng hình phạt đóng đinh trên thập giá là đặc quyền của đế quốc La Mã đối với nô lệ và dân thuộc địa. Người La Mã không áp dụng hình phạt này đối với các công dân của họ. Ngược lại, chính quyền bù nhìn Do thái thời đó do vua Herode cầm đầu cũng được phép xử tử tội nhân nhưng chỉ được dùng những cách thức thông thường như ném đá hoặc chém đầu chứ tuyệt đối không được phép áp dụng hình phạt đóng đinh tội nhân trên thập giá.
Đạo Công Giáo do hoàng đế La Mã Constantine thành lập năm 325, với ý đồ dùng tôn giáo làm phương tiện xâm lược toàn cầu, đã tôn Jesus vốn là nạn nhân của đế quốc La Mã lên thành Thiên Chúa tối cao nên bọn đế quốc đã tìm mọi cách đổ tội giết Jesus cho do Thái. Vì chẳng lẽ đế quốc La Mã lại tôn thờ một người do chính tay mình giết chết hay sao ? Đó là nguyên nhân chính yếu đã khiến cho đế quốc La Mã ra sức tuyên truyền xuyên tạc lịch sử nhằm tạo nên thành kiến thù ghét Do Thái triền miên trong lịch sử Âu Châu và cũng từ đó dẫn đến chủ nghĩa diệt chủng Do Thái của Vatican trong nhiều thế kỷ qua. Để thực hiện chủ trương này,Vatican đã soạn ra những bài kinh nhằm mục đích chạy tội giết Jesus của đế quốc La Mã mà đại diện của nó là quan toàn quyền Phong-xi-ô Phi-la-tô (Pontius Pilatus). Những âm mưu nham hiểm này được biểu lộ rõ nét nhất qua những bài kinh ngắm 14 nơi của Đàng Thánh Giá (TNKN 69-86) và kinh Ba Ngày Lễ Đèn (NK 250-277).
Sự thật lịch sử là quan toàn quyền La Mã Pontius Pilatus (Pilate) đã tuyên án xử tử Jesus về tội xúi giục dân chúng chống chính quyền, cũng tương tự như vua Herode chém đầu sư phụ của Jesus là Gio-an Bao-ti-xi-ta về tội này ba năm về trước. Chính Pilate trao Jesus cho toán lính La Mã thuộc quyền, do đại úy Longinus dẫn đầu, đem Jesus lên núi Sọ (Golgotha = Skull) để hành hình bằng cách lột trần truồng trước khi đóng đinh vào thập giá. Cái khố của Jesus trên thập giá tuy chỉ là một vật ngụy tạo nhỏ xíu nhưng thật sự nó là một tấm màn vĩ đại che lấp mọi sự dối trá bỉ ổi của Ki-tô Giáo nói chung và của Công Giáo La Mã nói riêng. Xin đọc thêm "Cái Khố Của Jesus Trên Thập Giá" của Charlie Nguyễn đăng trên Đông Dương Thời Báo – Houston, số 69 ngày 30.7.1998. Bài này được in lại trong tác phẩm "Thực Chất Của Giáo Hội La Mã", quyển 1 của giáo sư sử học Nguyễn Mạnh Quang, tr. 360 –365).
Tuy nhiên sự ngụy tạo cái khố của Jesus trên thập giá không bỉ ổi cho bằng sự kiện quân lính La Mã luôn luôn hiện diện trong suốt lộ trình của Đàng Thánh Giá nhưng trong 14 bài kinh của nghi thức cầu nguyện này không hề nói đến quân La Mã mà chỉ dùng những danh từ như "quân dữ", "quân độc ác" hoặc "quân Giu-dêu" để chỉ người Do Thái. Thí dụ những câu như : "quân dữ toan đóng đinh Đức Chúa Giê xu thì nó lột áo ra hết" ; "Tôi khen lòng mạnh bạo bà Veronica chẳng sợ quân dữ". Khi đọc các bài kinh này, giáo dân Việt Nam có ấn tượng "quân dữ" là người Do Thái chứ không phải là quân La Mã ! Ngoài ra còn có nhiều câu kinh miệt thị Do Thái và cố ý qui trách nhiệm giết Jesus cho họ như : "Đừng bắt chước quân Giu-dêu... Khi Phi-la-tô nghe lời quân Giu-dêu gắn vó van nài xin tha Baraba thì liền phú Đức Chúa Giê-xu cho quân lính đánh đòn cho đẹp lòng dân Giu dêu..." (KN 297). Ghê gớm nhất là lời nguyền rủa truyền kiếp độc địa được gán cho là lời của Jesus nguyền rủa dân tộc mình trong kinh Ba Ngày lễ Đèn (NK 250-277) : "Đức Chúa Giê xu liền trở mặt lại mà phán rằng : Ớ con thành Giê-ru-sa-lem bay chớ khóc thương Tao làm chi, bay hãy khóc thương bay cùng các con cháu bay ngày sau phải khốn mà chớ..." (NK 266). Nhiều câu kinh khác trắng trợn xuyên tạc lịch sử để gở tội cho La Mã : "Khi phi-la-tô thấy quân độc ác làm khốn cho Đức Chúa Giêxu thới quá [Thái quá, quá nhiều.] thì động lòng thương" (NK 263), "Vậy quan ấy tra hỏi căn do mới biết Người chẳng có tội gì cho nên quan ấy có ý muốn tha mà quân Giu-dêu ngăn cản chẳng chịu" (NK 259).
3. Công Giáo Việt Nam coi rẻ công ơn cha mẹ tổ tiên và các anh hùng dân tộc, ngược lại họ hết sức tôn sùng những kẻ loạn luân mất dạy. Điều này cho ta thấy Công Giáo là đạo mất dạy số Một.
Trong kinh Ăn Năn Tội có câu : "Lạy Chúa là cha rất nhân từ hơn cha mẹ thế gian bội phần" (NK 745). Câu kinh này phản ảnh đúng theo lời dạy của Jesus. Bản thân Jesus là một đứa con hoang nên Jesus thù ghét cha nuôi và mẹ ruột của y. Vì thế y đã dạy người khác bất hiếu với cha mẹ của họ. Phúc âm của Matthew (10:34-37) có chép lời Jesus như sau : "Chớ tưởng rằng ta đem hòa bình cho thế gian. Ta đến không phải đem lại hòa bình mà là gươm giáo. Ta đến để phân rẻ con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng và mọi người trong gia đình là thù nghịch của nhau. Ai yêu cha mẹ hơn yêu ta thì không xứng đáng với ta". (Think not that I am come to send peace on earth. I came not to send peace but a sword. For I am come to set a man at variance against his father, and the daughter against her mother and the daughter in law against her mother in law. And a man’s foes shall be they of his own household. He that loveth father or mother than me is not worth of me). Chỉ có những đứa con bất hiếu mới nghe nỗi những lời mất dạy đó của Jesus. Nếu quả thật Jesus đã nói những lời đó thì Jesus cũng là một gả mất dạy số Một và cái chết thê thảm của y trên thập giá cũng chưa đủ đền tội của chính y !
Trong nhiều thế kỷ qua, các giáo hoàng La Mã luôn luôn qui kết việc thờ cúng tổ tiên là thờ cùng ma quỉ nên người Công Giáo không lập bàn thờ gia tiên ở trong nhà. Đối với các vị anh hùng dân tộc thì người Công Giáo hoàn toàn dửng dưng. Ngược lại, người Công Giáo Việt Nam rất tôn sùng những kẻ loạn luân và vô đạo đức như Abraham và David... Abraham lấy em gái ruột làm vợ và toan giết con ruột mình để tế thần. David là một tên vua dâm dật vô độ. Y có cả ngàn cung nữ trong các nhà chứa gọi là ‘harem" mà vẫn chưa đủ thỏa mãn dục vọng. Vì quá say mê vẻ đẹp của bà Bathseba trong dịp David nhìn trộm bà Bathseba tắm truồng trên sân thượng nên y đã tìm cách sát hại chồng của bà là một vị tướng dưới quyền để cướp vợ của ông. Kinh Thánh Tân Ước không coi chuyện này là một điều xấu xa tội lỗi mà còn hãnh diện xác nhận cuộc tình tội lỗi này đã sinh ra các tổ tiên của Jesus. Tất cả để chứng tỏ Jesus là hậu duệ đời thứ 28 của tên dâm David ! Chuyện tình tội lỗi bẩn thỉu này chẳng có gì đáng hãnh diện cho David và Jesus. Vậy mà các sách kinh Công Giáo hết lời ca ngợi David là Vua Thánh : "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật đặng hiệp làm một cùng vua thánh David" (NK 330).
Trong kinh cầu Đức Bà có câu : "Đức Bà là lầu đài David". Mọi người Công Giáo Việt Nam muốn hiểu “lầu đài David" là cái gì thì hãy chịu khó đem sách kinh Cựu Ước ra đọc (Các Vua-Sách thứ nhất) tất nhiên sẽ thấy đó là các harem chứa gái cho tên hôn quân David hành lạc ! Ở đây tôi xin trích một đoạn ngắn để quý vị rõ. Quí vị sẽ thấy chuyện trong Thánh Kinh còn hay hơn chuyện "Chú Tư Cầu" hoặc chuyện "Cậu Chó" của Việt Nam trước 1975 : "Vua David đã già vì đã cao tuổi lắm, người ta đã lấy vải phủ lên Ngài rất nhiều nhưng ngài vẫn chẳng thấy ấm chút nào. Bọn hầu cận bàn với nhau là cần phải tìm cho ngài một cô gái trinh thật đẹp dẫn đến trước mặt ngài. Hãy dạy cho cô ta biết cách làm cho ngài thích thú. Hãy đặt cô ta nằm trong lòng ngài thì vua thánh của chúng ta mới sưởi ấm". Xin để quý vị đọc tiếp Chapter 1, the Third Book of the Kings của Cựu Ước, tôi xin miễn kể tiếp !
Điều bỉ ổi hơn nữa là Công Giáo La Mã ngụy tạo những bài kinh để che dấu những dối trá bịp bợm đã có sẵn từ trước. Đó là trường hợp hai bài kinh sau đây :
1. Kinh Ông Thánh Gioakim (trang 189 TNKN) : "Lạy ông Thánh Gioakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David, Đức Chúa Trời đã chọn mà ban mọi sự lành cho cả loài người ta vì đã dùng người cho được làm nên những mầu nhiệm Đức Chúa Trời tuyền ở thế gian này..."
2. Kinh Bà Thánh Anna (trang 212 TNKN) : "lạy ơn Bà Thánh Anna là mẹ Thánh Nữ Vương, bà làm sáng thiên hạ vì sinh được con thanh sạch sáng láng hơn mặt trời mặt trăng. Bà là đấng sang trọng thuộc dòng vua David..."
Vấn đề đặt ra là tại sao Công Giáo phải bịa ra hai bài kinh nói trên ?
Chuyện rắc rối khởi đầu từ việc Cựu Ước của Do Thái "tiên tri" Chúa Cứu Thế phải là người thuộc dòng dõi của vua David. Dù cho David hoang dâm vô độ nhưng lịch sử Do Thái vẫn coi Daid là vị anh hùng số một. Chúa Cứu Thế được dân chúng mong chờ như một David tái thế, do đó Chúa Cứu Thế được người Do Thái quan niệm như một vị vua David mới (Christ is the New King David). Chuyện rắc rối kế tiếp là trong thế kỷ I sau Công Nguyên, người viết Tân Ước lại chỉ nhấn mạnh đến ông Joseph là chồng của bà Maria và là cha ruột của Jesus nên tác giả Tân Ước đã thuật lại cả một hệ thống dọc gia phả từ David đến Joseph và không hề viết một điều nào chứng tỏ bà Maria là người thuộc dòng dõi vua David cả. Như vậy rõ ràng Jesus thuộc dòng dõi David vì là con ruột của Joseph, cho nên Jesus có thể được chấp nhận là đấng Cứu Thế như Cựu Ước đã tiên tri. Nhưng nếu điều nầy được chấp nhận thì bà Maria không thể Đồng trinh !
Vấn đề rắc rối kế tiếp xảy ra năm 451, sau khi Công đồng Chalcedon công bố tín điều Đức Mẹ trọn đời đồng trinh (dogma of the Perpetual Virginity). Người ta tự hỏi : "Nếu Chúa Jesus là con của Đức Chúa Thánh Thần và Đức Bà Đồng Trinh thì Chúa Jesus đúng là con của Đức Chúa Trời thật, Ngài không phải là Chúa Cứu Thế [ Chúa trời và Chúa Cứu Thế là hai nhân vật khác nhau.] vì Ngài không thuộc dòng dõi vua Thánh David như Cựu Ước đã tiên tri ! Chẳng lẽ Đức Chúa Thánh Thần cũng là con cháu của David" ? Theo lẽ thường ở trên đời, mọi sự gian dối luôn luôn đẻ ra những sự gian dối khác, nhưng mọi sự gian dối thường lâm phải tình trạng "dấu đầu hở đuôi". Tuy vậy, vốn sẵn bản chất đại lưu manh chuyên nghiệp, tòa thánh La Mã đã trơ trẽn sáng chế hai bài kinh nói trên (mặc dầu không có căn bản Thánh Kinh – Unscriptural) nhưng cốt để tín đồ tin rằng cả cha lẫn mẹ của bà Maria là Gioakim và Anna đều thuộc dòng dõi của vua David, cho nên Jesus dù là con của Chúa Thánh Thần và bà Maria đồng trinh cũng vẫn thuộc dòng dõi David như thường ! Tôi nêu lên những điều trên đây để yêu cầu Linh Mục Việt Châu, Chủ nhiệm Nguyệt San Dân-Chúa kiêm đại diện Cơ Sở Xuất Bản Dân-Chúa (P.O. Box 1419 Gretna, LA 70053) chịu trách nhiệm xuất bản sách Toàn Niên Kinh Nguyện, trả lời cho độc giả bốn phương được biết Kinh Thánh nói ông Gioakim và bà Anna thuộc dòng dõi vua David ở đoạn nào ? Nếu LM Việt Châu không trả lời nổi thì mọi cuốn sách Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu-Hà nội cần phải được thu hồi để vứt bỏ.
Cho nên người ta gọi Công Giáo là đạo bịp hay đạo dối, thật không sai chút nào. Nếu phải kể cho hết những chuyện bịp của Công Giáo chắc phải viết một tràng thiên tiểu thuyết thì may ra mới tạm đủ. Riêng về chuyện Thánh Phêrô là giáo hoàng đầu tiên cũng có hàng chục chuyện bịp. Chẳng hạn cái được gọi là "Chiếc ghế Phêrô" (Chair of Peter) cốt để mọi người tin rằng Công Giáo là đạo chính truyền của chúa Jesus qua thánh Phêrô. Vào tháng 7 nam 1968, một phái đoàn khoa học quốc tế đã đến tận Tòa Thánh giảo nhiệm bằng phương pháp Carbon (Carbon dating method) đã xác nhận chiếc ghế này được ngụy tạo trong thế kỷ 9. Còn tượng thánh Phêrô bằng đồng đen rất lớn đứng gần bàn thờ chính trong Đền Thánh Phêrô đã được toàn giáo hội Công Giáo tôn kính nhiều thế kỷ qua với hàng triệu triệu người đã quì mọp hôn chân tượng này. Các nhà khoa học và khảo cổ xác định bức tượng này là tượng Thần Jupiter của các hoàng đế thời cổ La Mã vài thế kỷ trước khi Jesus ra đời ! (Babylon Mystery Religion, p. 78-). Chúng ta thường nghe Vatican khoe khoang rằng : "Giáo hoàng là đấng thừa kế ngôi vị của Thánh Phêrô" (Saint Peter’s Successor) nhưng có lẽ ít ai biết giáo hoàng nào là người đầu tiên nêu lên danh hiệu này. Tôi xin kể lại một lần nữa hầu quí vị nghe câu chuyện thương tâm của giáo hoàng Joanne như sau :
Giáo hoàng này nguyên là một cô gái, hồi còn nhỏ có tên là Catherine tinh nghịch. Vào đầu thế kỷ 9, cô gái đến tuổi trưởng thành đã giả trai xin vào tu ở một Dòng Nam với sự cải tên là Joanne. Dần dần bà trở thành một thầy tu rất nổi tiếng về tài hùng biện. Bà đã để lại nhiều bài diễn văn độc đáo hiện còn lưu trữ trong văn khố của Tòa Thánh. Nhiều sử gia Ý như Petrarch, Boccacio đã viết sách ca ngợi sự học vấn uyên bác của bà. Vào năm 855, Giáo hoàng Leo IV qua đời. Hội thánh Công Giáo lúc đó nhận thấy chỉ có tu sĩ Joanne là người xứng đáng nhất kế vị giáo hoàng. Kết quả là Hội Thánh dưới sự "hướng dẫn" của Đức Chúa Thánh Thần đã bầu tu sĩ Joanne vào ngôi vị Đại Diện Chúa Ki Tô Dưới Trần Thế. Trong lễ đăng quang, ngài tuyên bố "Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phê-rô". Giáo hoàng Joanne cai trị Hội Thánh của Chúa được ba năm rất ngon lành thì một tai biến bất ngờ xảy ra cho ngài. Năm 858, tòa Thánh tổ chức một cuộc rước kiệu trọng thể tại Rome. Trong lúc Đức Thánh Cha đang nghiêm trang đi theo đoàn kiệu thì bất ngờ ngài bị té xỉu, máu ra lênh láng ướt hết đũng quần và bộ lễ phục giáo hoàng lộng lẫy sang trọng. Lúc đó cả giáo hội kinh ngạc khám phá ra là Đức Giáo Hoàng bị... sẩy thai ! Ngay lập tức sau đó, Giáo hoàng Joanne [Trong nhiều sách liệt kê các triều đại giáo hoàng, không có tên nữ giáo hoàng nầy.] bị lột trần truồng và bị đám tu sĩ của Tòa Thánh lôi ra Công trường Colossium để cho dân chúng ném đá đến chết tại chỗ. Nữ giáo hoàng thật ra chẳng có tội gì, ngài đã chết thảm chỉ vì ngài là một phụ nữ. Linh mục nữ còn không được chấp nhận huống hồ là Nữ Giáo Hoàng !
Ngoài các bài kinh ca ngợi tên hôn quân dâm dật khét tiếng David, sách kinh Công Giáo Việt Nam cũng không thiếu gì những bài kinh cầu ca ngợi tên mất dạy Abraham – ông tổ chung của đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Nhưng điều đáng nói là trong những bài kinh này, người Công Giáo Việt Nam đã sỉ nhục dân tộc mình : "Xin Chúa đoái thương dân tộc Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngọai giáo. Chúa đã phán rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi đông tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước thiên đàng" (NK 144-145); "Xin các thánh thần đem linh hồn này lên nơi vui vẻ cùng ông thánh Abraham" (NK 330). Những bài kinh như vậy đã dẫn dắt người Công Giáo Việt Nam xa rời dân tộc và từ đó đi tới chỗ phản quốc không còn bao xa. Sách kinh Công Giáo chính là cội nguồn sâu xa đã đưa họ vào con đường phản bội tổ quốc và dân tộc Việt Nam !
4. Những câu kinh nhục mạ các dân tộc Đông phương là mọi rợ và nói lên ý đồ của Công Giáo Việt Nam muốn tiêu diệt đạo Phật :
Trong kinh cầu ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e có những câu như : "Ông Thánh Phan-xi-cô soi sáng phương Đông... là đá tảng đỡ Hội thánh Phương Đông... Ông Thánh Phan-xi-cô phá tan đạo bụt thần... Ông Thánh Phan-xi-cô là lịnh rao tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ" (NK 782-791). Với những câu kinh nói trên, rõ ràng Giáo hội Công Giáo Việt Nam đã công khai bày tỏ ý muốn "phá tan đạo Phật" và công khai nhục mạ các dân tộc Đông phương, trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc, Đại Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan... là những dân tộc mọi rợ ! Quê hương của Phan-xi-cô là Tây Ban Nha so với những con rồng Châu Á thôi chứ chưa cần phải so sánh với Nhật Bản cũng đủ thấy cách xa nhau một trời một vực. Nếu dịch các câu kinh này ra tiếng Tây Ban Nha cho họ đọc, chắc chắn những người Tây Ban Nha có liêm sỉ phải cảm thấy xấu hổ.
Chúng ta cần phải hiểu thế nào là mọi rợ. Theo tôi thì người Công Giáo hiện nay còn đang ở trong tình trạng rất mọi rợ về tâm linh và còn lâu họ mới có thể trở thành người văn minh về phương diện này. Trước hết, họ luôn luôn mang tâm cảm là những "con chiên" tức những con cừu non (Lamb : young sheep). Giống cừu, nhất là cừu non, thường rất ngu, chúng chỉ hùa theo bày như chuyện những con cừu của Panurge mà học sinh trung học thời trước đã học qua những giờ về Littérature Francaise đều biết. Muốn trở thành người Việt Nam bình thường, người Công Giáo phải trải qua nhiều bước trong quá trình tiến hóa tâm linh mới đạt được. Bước đầu tiên họ phải gạt bỏ cái mặc cảm là bầy chiên ngu ngốc của Vatican để nhận ra nhân cách con người của mình. Nghĩa là họ phải trải qua quá trình tiến từ súc vật để trở thành người đứng thẳng (Homo Erectus).
Sau đó, họ cần phải loại bỏ cái thói xấu thích ăn thịt người (Cannibal) dù chỉ là ăn thịt người tưởng tượng khi họ xếp hàng lên phía bàn thờ cố đạo cho "Rước Mình Thánh Chúa". Phép bí tích Mình Thánh Chúa đã biến người Công Giáo thành những kẻ ăn thịt người vừa man rợ vừa ngây ngô đến tức cười sống giữa xã hội văn minh của loài người chúng ta. Cách đây vài chục năm, tôi đã có lần lên chịu lễ nhưng tôi không nuốt bánh Thánh. Tôi ra khỏi nhà thờ, nhổ bánh Thánh xuống đất và dùng gót giầy đạp lên nó. Tôi đạp lên bánh Thánh với cảm giác như mình đang hết sức đạp thẳng vào Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và giáo hoàng ở Vatican. Nhờ hành động này, tôi cảm thấy đã tiến hóa một lúc tới hai bước : Một là tôi từ bỏ thân phận làm con cừu của Vatican để "trở lại" làm người. Đồng thời tôi đã tiến một bước nhảy vọt về tâm linh từ một tên mọi rợ dã man ăn thịt người để "trở lại" thành người bình thường trong xã hội. Sau khi trở lại làm người bình thường, tôi phải học hỏi về cội nguồn dân tộc và nhận thức được giá trị rất cao của nền văn hóa nhân bản của tổ tiên chúng ta. Phải trải qua một quá trình tự giáo dục và chiến đấu với bản thân hết sức quyết liệt, tôi mới có thể cải hóa tâm linh của mình từ một tín đồ Công Giáo để tiến lên làm một người Việt Nam bình thường như mọi người Việt Nam bình thường khác. Cho tới bây giờ, tôi mới dám tự hào được làm một người Việt Nam bình thường ! Khi bình tâm nghĩ lại tôi cảm thấy đồng bào Công Giáo của mình thật đáng thương vì họ còn ở trong tình tạng bán khai tâm linh mà chính họ không biết nên đã quay ngược chê dân tộc mình là mọi rợ. Thật là một sự đau xót vô cùng.
(còn tiếp)
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=118201093105783&set=gm.649895342434786&type=1&theater

KINH THÁNH DO AI VIẾT ?

Các Phúc âm của Mark, Luke và Matthew nói về giai đoạn hoạt động mà người Do Thái cũ gọi là "làm loạn" chỉ chưa đầy một năm của Giê Su đến khi ông chết.
Giê Su ra đời vào ngày nào?
Điều gần như chắc chắn là Giê Su không ra đời vào ngày Giáng Sinh như người ta tin vào thời nay.
Phúc âm của Matthew mà tác giả là người ẩn danh, vào khoảng năm 75 đến 85 sau Công nguyên nói Giê Su sinh ra thời vua Herod.
Herod qua đời năm thứ 4 trước Công nguyên, nên Giê Su phải sinh ra trước năm đó, theo Dominic Selwood.
Kinh Phúc âm mói Giê Su chết trong lễ Passover, và một số học giả lấy lễ này của đạo Do Thái để chọn ra ngày 25/03.
Cũng trong Do Thái giáo có niềm tin cổ xưa rằng các vị tiên tri như Giê Su được thụ thai và sinh ra cùng một ngày với ngày chết.
Vì thế tín đồ Ki Tô có thể đã cho rằng Giê Su được thụ thai và chết ngay trong ngày 25/03.
Tính thêm 9 tháng thì ngày sinh Giê Su phải là 25/12 . Như thế, chọn ngày Giáng Sinh vào giữa mùa hè hay giữa mùa đông đều được.
Khinh thánh là gì, do ai viết.
Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN.
Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Như vậy Cựu Ước viết trước khi Jesu sinh ra.
Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.
Dân Hebrew có tục chị dâu góa chồng mà chưa có con thì được quyền lấy một trong các em trai của chồng. Giuđa (cháu nội tộc trưởng Abraham) bảo con trai thứ hai của mình là Onan : Con hãy ngủ với chị dâu con (là Tama) để làm tròn bổn phận em chồng – sinh người nối dõi cho anh con (anh của Onan là Êrơ do độc ác đã bị Thượng Đế Jehovah giết). Onan biết đứa con nối dõi ấy sẽ không thuộc về mình nên khi “ngủ” với Tama đã cố ý làm rơi tinh dịch ra ngoài. Thượng Đế coi việc đó là tội ác nên đã giết Onan (trang 45 Kinh Thánh). Vậy phải chăng Thượng đế cổ xúy cho loạn luân.
Vũ Trần.
https://www.facebook.com/groups/443140173110305
Không có mô tả ảnh.

Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2020

Thưa Cha : THIÊN CHÚA CÓ THẬT KHÔNG ?

Có một con chiên già rồi ,trong một gia đình quan chức TCG , khi sắp chết , cho mời Cha vào làm lễ , khi Cha vào , Bà nầy thưa với Cha rằng : Con cả đời không bỏ sót một buổi lễ nào, giờ con sắp chết, chỉ xin hỏi Cha một câu. Cha nói : Con cứ hỏi. Bà hỏi rất lễ phép
Thưa Cha : THIÊN CHÚA CÓ THẬT KHÔNG ? Cha chỉ đứng im và không nói được lời nào.
Bà ấy tắt thở , câu hỏi đó trong một gia đình Công giáo mà chưa có câu trả lời.

https://www.facebook.com/groups/1993155514291442

GIÁO DÂN KỂ CHUYỆN: SỰ THẬT VỀ CHA NGUYỄN ĐỨC LỢI , GIÁO PHẬN PHAN THIẾT

CHA NGUYỄN ĐỨC LỢI CÓ VỢ VÀ CON RIÊNG TẠI MIỀN TÂY

SỰ THẬT VỀ CHA NGUYỄN ĐỨC LỢI ,
GIÁO PHẬN PHAN THIẾT


Bức xúc quá, tôi xin được trình bày cùng quý anh chị em một việc mà lẽ ra tôi đã muôn nói từ rất lâu, nhưng vì nhiều lí do khác nhau mà tôi chưa thể thộ lộ hết nỗi niềm của tôi đươc. 
Chắc có lẽ quý anh chị em cũng biết Cha Nguyễn Đức Lợi là người Cha hiện nay là chánh xứ giáo xứ Thánh Linh tại Hàm Tân, đã từng làm quản xứ giáo xứ Thọ Tràng (năm 2007) , xã Mương Mán , huyện Hàm Thuận Nam , tỉnh Bình Thuận. Thời gian mà  làm Cha quản xứ ở đó, đã gây ra không ích việc làm kinh động đến Chúa.
      việc làm kinh động thứ nhất là Cha Lợi đã dụ dỗ và quan hệ với Sour Nguyễn Thùy Đoan ( người thôn Văn Lâm , xã Hàm Mỹ , huyện Hàm Thuận Nam ), hậu quả sơ Đoan có thai và sinh được một người con trai và tất nhiên là phải xuất tu theo quy định của Giáo hội Công giáo của Chúng ta, từ hậu quả trên Cha Lợi đã fải rất vất vả và tìm đủ mọi cách che dấu đồng thời lo liệu cho hai mẹ con sơ Đoan chuyển vùng sinh sống(lo liệu về tiền bạc, nơi ở...) , để cho Cha được bình an trong xứ vụ linh mục của mình. Hơn thế nữa , để tránh lời ra tiếng vào trong bà con giáo dân giáo xứ Thọ Tràng và trong giáo hội, thì vào năm 2010 Cha Lợi nhanh chóng làm các thủ tục hồ sơ để được đi du học ở Mỹ một thời gian (tôi có nghe thông tin là hiện nay hai mẹ con sơ Đoan đang lặn lẽ sinh sống ở miền Tây và có cuộc sống về vật chất tương đối ổn định).
       Nguyên sự việc xảy ra thế này là do sơ Đoan (trước đây là nữ tu thuộc Cộng đoàn Khiết Tâm Nha Trang) có phòng nghỉ nằm sát vách phòng của Cha Lợi ở xứ Thọ Tràng ( chính Cha N.VT. chánh xứ P.Hài lúc đó quá bức xúc nên cũng sáng tác bài thơ đổ tại “Cái Lỗ” về Cha Lợi ). Sự việc được dư luận làm um sùm khắp vùng Hàm Mỹ trong một thời gian. Ai cần làm rõ trắng đen sự thật xin hãy về thôn Văn Lâm, xã Hàm Mỹ nơi có ông Hoài (đã về với Chúa), ông Khiêm và một số vị trong Hội đồng mục giáo xứ Thọ Tràng rất bức xúc, tức cục tức lên tới tận cổ.
       Sự thật thứ 2 , thời gian quản xứ Thọ Tràng cũng là thời gian Cha Lợi góp tiền xây dựng Thánh đường Ba Bàu và Anton (vùng Hàm Thuận Nam). Cả hai ngôi Thánh đường này được đưa vào sử dụng chưa đầy 05 năm nhưng đã có biểu hiện dột nát, nền sập gây khó khăn trăm bề cho cha xứ mới, làm ảnh hưởng đến việc sinh hoạt chung của bà con giáo dân nơi đây. Vậy mà số tiền thời điểm đó Cha thông báo trong giáo xứ lên con số khủng. Phải chăng Cha đã lợi dụng quyền năng của mình để trục lợi phục vụ cho việc chi tiêu cá nhân và sử dụng để ổn định cuộc sống của sơ Đoan tại miền Tây trước khi sang Mỹ du học
       Đó là chưa kể một số Thầy do không chịu xu nịnh, ninh bợ, tâng bốc cha nên đã bị cha bóp nghẹt, gây khó khăn trong quá trình hoạt động của mình, nhất là vào thời điểm sắp chịu chức phó tế.
       Giáo hội chúng ta vẫn đang có những vị Cha thật tệ bạc về nhân cách và đạo đức.
   Nỗi lòng giáo dân xứ Thọ Tràng!!!