Tìm kiếm Blog này

Thứ Ba, 28 tháng 7, 2020

DANH NHÂN TRÍ THỨC ÂU MỸ QUA CÁC THỜI ĐẠI NGHĨ GÌ VỀ THẦN (GOD), KI-TÔ GIÁO?

Trần Chung Ngọc
Theo tự điển The American Heritage Dictinonary của Mỹ thì định nghĩa của Tôn Giáo là: “Niềm tin và sự kính ngưỡng vào một quyền năng siêu nhiên được biết như là một đấng sáng tạo và cai quản vũ trụ” (Religion = Belief in and reverence for a supernatural power recongnized as the creator and governor of the universe). Trong những phần trích dẫn sau đây, danh từ "tôn giáo" chỉ những tôn giáo độc thần như Ki Tô Giáo, và danh từ "thần" (God) chỉ vị thần của tôn giáo đó mà các tín đồ thờ phụng. Những từ này không áp dụng cho Phật Giáo, Lão Giáo hay Khổng Giáo.
Michel de Montaigne 1533-1592
Michel de Montaigne (1533-1592), Văn sĩ Pháp: Không có gì được tin chắc bằng những điều mà chúng ta biết ít nhất. (Nothing is so firmly believed as what we least know);  Những người có trình độ hiểu biết đơn giản, ít đầu óc tìm tòi và ít học vấn là những tín đồ Ki Tô tốt (Men with simple understanding, little inquisitive and little instructed make good Christians.)
SirFrancisBacon 1561-1626
Sir Francis Bacon (1561-1626), Khoa học gia và triết gia Anh:  Người tin thuyết Chúa Ba Ngôi tin rằng một trinh nữ chính là mẹ của một đứa con đã tạo ra bà ta. (The trinitarian believes a virgin to be the mother of a son who is her maker.)
ThomasHobbes 1588-1679
Thomas Hobbes (1588-1679), Tư tưởng Gia Anh: Thần học là vương quốc của sự tối tăm (Theology is the kingdom of darkness);  Tôn giáo giống như những viên thuốc mà người ta phải nuốt chửng cả viên. (Religions are like pills, which must be swallowed whole without chewing).
Baron de Montesquieu 1689-1755
Baron de Montesquieu (1689-1755), thành viên Hàn Lâm Viện Pháp:  Không có vương quốc nào phải chịu đựng nhiều nội chiến như là vương quốc của Chúa Ki-Tô (No kingdom has ever suffered as many civil wars as the kingdom of Christ);  Nếu các hình tam giác mà tạo ra một vị thần thì chúng sẽ làm cho ông ta có ba cạnh (If triangles made a god, they would give him three sides);  Lịch sử có đầy những cuộc chiến tranh tôn giáo; nhưng, chúng ta phải nhận xét cẩn thận, không phải vì có nhiều tôn giáo mà có nhiều chiến tranh, mà vì tinh thần không khoan nhượng trong một tôn giáo (Ca-Tô giáo) nghĩ rằng mình có quyền thống trị (History is full of religious wars; but, we must take care to observe, it was not the multiplicity of religions that produce these wars, it was the intolerating spirit which animated that one which thought she had the power of governing).
Voltaire 1694-1778
Voltaire (1694-1778), Văn hào, Triết gia .. Pháp:  Ki-Tô giáo là tôn giáo lố bịch nhất, vô lý nhất và đẫm máu nhất làm nhiễm độc thế giới. (Christianity is the most ridiculous, the most absurd and bloody religion that has ever infected the world);  Trong 1700 năm, Ki Tô giáo không làm gì khác ngoài việc gây hại cho nhân loại (For 1700 years, the Christian sect has done nothing but harm;  Những tín đồ Ki-Tô là những người bất khoan dung nhất (Christians have been the most intolerant of all men);  Hãy nghiền nát cái đồ ô nhục (Easez l’infâme! [crush the infamous thing - Christianity];  Vô thần là thói xấu của một số nhỏ những người thông minh (Atheism is the vice of a few intelligent people);  Thần Ki-Tô luôn luôn ở phía những tiểu đoàn mạnh nhất (God is always on the side of the heaviest battalions);  Tai họa giáng vào thế giới qua tội lỗi của Adam. Nếu cái tên ngu đần ấy không phạm tội, chúng ta đã có thể không bị làm khổ bởi bệnh đậu mùa, bệnh ghẻ, hoặc môn thần học, hoặc đức tin duy nhất có thể cứu rỗi chúng ta (Evil came into the world through the sin of Adam. If that idiot had not sinned, we should not have been afflicted with the smallpox, nor the itch, nor theology, nor the faith which alone can save us.);  Lời của Thần Ki Tô là lời của các linh mục; sự vinh quang của Thần Ki Tô là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Thần Ki Tô là ý của các linh mục; xúc phạm Thần là xúc phạm các linh mục; tin vào Thần là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)
EdwardGibbon 1737 - 1794
Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh:  Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của giới giáo sĩ thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than their virtues.);  Những tội nghiêm trọng nhất đã bị dẹp bỏ, Người đại diện của Chúa Ki Tô (Giáo hoàng John XXIII, 1414) chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm hiếp, giao hợp đồng giống, và loạn luân (The most serious charges were suppressed; the Vicar of Christ (Pope John XXIII, 1414) was accused only of piracy, murder, rape, sodomy, and incest.)
PierreBayle 1647-1706
Pierre Bayle (1647-1706), Triết gia Pháp:  Về những vấn đề tôn giáo, rất dễ lừa dối một người, nhưng rất khó mà giải hoặc hắn (In matters of religion, it is very easy to deceive a man, and very hard to undeceive him);  Không có quốc gia nào hiếu chiến như là những quốc gia theo Ki Tô Giáo (No nations are more warlike than those which profess Christianity)
DanielDefoe 1660-1731
Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia Anh:  Trong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới giáo sĩ là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)
Frederik the Great 1712-1786
Frederik the Great (1712-1786), Vua nước Phổ:  Mọi nhà thần học đều giống nhau.. Mục đích của họ luôn luôn là đặt bạo quyền trên tâm thức con người. Do đó họ khủng bố mọi người chúng ta dám táo bạo phanh phui sự thật (Theologians are all alike .. Their aim is always to wield despotic authority over men’s consciences. They therefore persecute all of us who have the temerity to unveil the truth.)
BenjaminFranklin 1706-1790
Benjamin Franklin (1706-1790), Khoa học gia Mỹ:  Cách nhìn mọi sự việc bằng đức tin là nhắm con mắt của lý trí. (The way to see by faith is to shut the eye of reason).
JohnMilton1608 - 1674
John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh:  Đạo Ca-Tô Rô-Ma có ít tính chất tôn giáo hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the command of Chist himself.)
LadyMaryWortleyMontagu 1689-1762
Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh:  Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin, (Priests can lie, and the mob believe, all over the world).
ThomasPaine 1737-1809
Thomas Paine (1737-1809), triết gia Anh, tác giả cuốn sách nổi tiếng Thời Đại Của Lý Trí:  Cuốn Tân Ước dạy chúng ta những gí? Tin rằng Đấng Toàn Năng phạm tội lăng nhăng với một người đàn bà đã có chồng; và tin vào cái chuyện lăng nhăng này gọi là đức tin. (What is the New Testament teaches us? To believe that the Almighty committed debauchery with a woman engaged to be maried; and the belief of this debaucery is called faith; * Nguồn gốc của sự xấu xa nhất, của những sự độc ác khủng khiếp nhất, và những sự khổ sở to lớn nhất giáng lên đầu nhân loại là ở trong cái gọi là mạc khải, hay tôn giáo mạc khải (The most detestable wickedness, the most horrid cruelties, and the greatest miseries that have afflicted the human race have had their origin in this thing called revelation, or revealed religion);  Tin vào một vị Thần độc ác làm cho con người thành độc ác (Belief in a cruel god makes a cruel man.);  Một thầy giáo giỏi có ích hơn là 100 linh mục (One good school master is of more use than a hundred priests.)
ThomasJefferson 1743-1826
Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ:  Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do.(In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty).  Thần Ki-Tô là một nhân vật có những tính cực kỳ độc ác, bất khoan dung, đồng bóng , và bất công. (The God is a being of terrific character - cruel, vindictive, capricious, and unjust);  Đã tới 5, 60 năm từ ngày tôi đọc cuốn Khải Huyền, và từ đó tôi coi nó chỉ là những lời điên dại mê sảng của 1 kẻ cuồng điên (It has been 50 and 60 years since I read the Apocalypse, and I then considered it merely the ravings of a maniac).
JamesMadison 1751-1836
James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ:  Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới giáo sĩ, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ, sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial. What has been its fruits? More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)
NapoléonBonaparte 1769-1821
Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp:  Hiệp hội Giêsu là hội nguy hiểm nhất, và đã gây nên nhiều tổn hại hơn tất cả những hội tôn giáo khác (The Society of Jesus is the most dangerous of orders, and has done more mischief than all the others);  Kiến thức và lịch sử là những kẻ thù của tôn giáo (Knowledge and history are the enemies of religion);  Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)
ArthurSchopenhauer 17881860
Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức:  Bạn có thể ghi nhận là đức tin và kiến thức thì liên hệ với nhau như là hai cán cân; khi cán cân bên này lên thì cán cân kia xuống (You may observe that faith and knowledge are related as the scales of a balance; when the one goes up, the other goes down);  Những hoa trái của Ki Tô giáo là chiến tranh tôn giáo, những cuộc tàn sát, những cuộc chiến tranh thập giá, những tòa án xử dị giáo, sự tiêu diệt các thổ dân Mỹ, và đưa những nô lệ Phi Châu vào thay thế (The fruits of Christianity were religious wars, butcheries, crusades, inquisitions, extermination of the natives in America, and the introduction of African slaves in their place);  Ca-Tô giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it. The priest are the brokers for it);  Mọi tín lý, bất kể là vô lý tới đâu, khi cấy vào con người từ nhỏ, chắc chắn là ở trong đó suốt đời (Any dogma, no matter how extravagantly absurd, inculcated in childhood, is sure to retain its hold for life.)
JohnStuartMill 1806 - 1873
John Stuart Mill (1806-1873), Triết gia Anh:  Giáo hội bất khoan dung nhất trong mọi giáo hội: giáo hội Ca-Tô Rô-ma (The most intolerant of churches, the Roman Catholic Church.)
President AbrahamLincoln 1809-1865
Abraham Lincoln (1809-1865), Tổng Thống Mỹ:  Cả hai (Ca Tô và Tin Lành) đều đọc cùng một cuốn thánh kinh, cầu nguyện cùng một Thần, và người này viện đến sự giúp đỡ của Thần chống người kia (Both read the same Bible, and pray to the same God; and each invokes His aid against the other.)
Charles Robert Darwin 1809-1882
Charles Darwin (1809-1882), Khoa học gia Anh, nhà lập thuyết Tiến Hóa:  Khoa học và chúa KiTô chẳng có liên hệ gì với nhau. Tôi không tin đã có một sự mạc khải nào (Science and Christ have nothing to do with each other. I do not believe that any revelation has ever been made).
CharlesDickens 1812-1870
Charles Dickens (1812-1870), Văn hào Anh:  Tôi tin rằng sự phổ biến đạo Ca-Tô là phương cách khủng khiếp nhất của sự thoái hóa chính trị và xã hội còn sót lại trên thế giới. Những nhà truyền giáo là những kẻ quấy rầy hạng nhất, và làm cho mọi nơi mà họ tới trở thành tệ hơn (I believe the dissemination of Catholicity to be the most horrible means of political and social degradation left in the world. Missionaries are perfect nuisances, and leave every place worse than they found it.)
TH Huxley 1825 - 1895
Thomas Henry Huxley (1825-1895), Khoa học gia Anh:  Tín điều về sự không thể sai lầm của Thánh kinh cũng chẳng hiển nhiên hơn tín điều về không sự sai lầm của các giáo hoàng (The dogma of infallibility of the Bible is no more self-evident than is that of the infallibility of the popes.)  Từ một nô lệ của chế đô giáo hoàng, người trí thức đã trở thành thân trâu ngựa của Thánh kinh (có nghĩa là bỏ Ca-Tô sang Tin lành. TCN) From being a slave of the papacy, the intellect was to become the serf of the Bible.)  Hệ thống giáo sĩ là kẻ thù sống chết của khoa học. Thuyết tiến hóa loại bỏ thuyết sáng tạo và mọi sự can thiệp của Thần Ki Tô (The ecclesiastical system is the deadly enemy of science. Evolution excludes creation and all other kinds of supernatural interventions.)  Hoài nghi là bổn phận cao nhất và đức tin mù quáng là tội không thể tha thứ được (Skepticism is the highest duty and blind faith the one unpardonable sin.)
LeoTolstoy 1828-1910
Leo Tolstoy (1828-1910) văn hào Nga:  Tôi tin chắc rằng giáo lý của giáo hội (Ca-Tô) là một sự nói láo xảo quyệt và xấu xa theo lý thuyết, và là sự pha trộn của sự mê tín thô thiển nhất và trò ma thuật về phương diện thực hành (I am convinced that the teaching of the church is in theory a crafty and evil lie, and in practice a concoction of gross superstition and witchcraft.)  Đúng vậy, tội không chấp nhận một thuyết không hiểu được là thuyết Ba Ngôi, và huyền thoại về sự sa ngã của con người, vì chúng vô lý trong thời đại của chúng ta. (It is true, I deny an incomprehensible Trinity, and the fable regarding the fall of man, which is absurd in our day.)  Đúng vậy, tôi không chấp nhận cái chuyện có tính cách xúc phạm về một vị Thần sinh ra từ một trinh nữ đề chuộc tội cho nhân loại (It is true, I deny the sacrilegious story of a God born of a virgin to redeem the race.)
RobertGIngersoll 1833-1899
Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ:  Tôi muốn gì cho ngày giáng sinh? Tôi bắt giáo hoàng phải vứt đi cái mũ ba tầng của ông ta, cởi bỏ bộ quần áo thiêng liêng của ông ta, và thừa nhận rằng ông ta không hành động cho Thần Ki Tô - không phải là không thể sai lầm - mà chỉ là một người Ý thông thường. Tôi bắt tất cả những hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục thừa nhận rằng họ chẳng biết gì về thần học, về thiên đường hay hỏa ngục, về số phận tương lai của nhân loại, về quỷ hay hồn ma, về các thần hay thiên thần. Tôi muốn toàn thể thế giới không còn bất công, không còn mê tín (What I want for Christmas? I would have the pope throw away his tiara, take off his sacred vestments, and admit that he is not acting for god - is not infallible - but is just an ordinary Italian. I would have all the cardinals, archbishops, bishops, priests admit that they know nothing about theology, nothing about hell or heaven, nothing about the destiny of the human race, nothing about devils and ghosts, gods or angels. I would like to see the whole world free - free from injustice - free from superstition).  Một thầy giáo giỏi có giá trị hơn 1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.)  Trong nhiều thế kỷ, cây thập giá và lưỡi gươm là đồng minh của nhau. Cùng với nhau, chúng tấn công nhân quyền. Chúng chống đỡ cho nhau (For many centuries, the sword and the cross were allies. Together they attacked the rights of man. They defended each other.)  Nếu Ki Tô giáo chỉ ngu đần và phản khoa học, nếu Thần của Ki Tô giáo chỉ dốt nát và có lòng tốt, nếu Ki Tô giáo hứa hẹn cho các tín đồ một sự hỉ lạc vĩnh hằng, và nếu các tín đồ thực hành hạnh tha thứ mà Ki Tô Giáo răn dạy, thì tôi là người chẳng đụng gì đến tín ngưỡng của họ. Nhưng Ki Tô giáo còn có một mặt khác. Tôn giáo này không chỉ ngu đần mà còn lắt léo, không chỉ phản khoa học mà còn vô nhân tính. Thần của tôn giáo này không chỉ dốt nát mà còn ác độc. Tôn giáo này không chỉ hứa hẹn cho tín đồ một phần thưởng vĩnh hằng mà còn khẳng định rằng hầu hết mọi người (tín đồ hay không. TCN) đều bị giam cầm trong những tòa hình ngục của Thần và sẽ bị vĩnh viễn đau đớn. Đó là sự man rợ của Ki Tô Giáo. (If Christianity were only stupid and unscientific, if its god were ignorant and kind, if it promised eternal joy to believers, and if the believers practiced the forgiveness they teach, for one I should let the faith alone. But there is another side to Christianity. It is not only stupid, but malicious. It is not only unscientific, but it is heartless. Its god is not only ignorant, but infinitely cruel. It not only promises the faithful an eternal reward, but declares that nearly all of the children of men, imprisoned in the dungeons of god will suffer eternal pain. This is the savagery of Christianity.)
Robert G. Ingersoll (1833-1899 ) : What is the difference between Catholicism and Protestantism? and which one is better? Protestantism is better because it is less Catholic, but the difference between Catholicism and Protestantism is only the difference between an alligator and a crocodile . “Sự khác biệt giữa đạo Công giáo và đạo Tin lành là gì? Và đạo nào tốt hơn?” “Tin lành khá hơn vì có ít chất công giáo hơn [nghĩa là ít độc tài, xảo quyệt, hoang đường hơn]nhưng sự khác biệt giữa đạo Công giáo và đạo Tin lành chỉ là sự khác biệt giữa một con cá sấu lớn và một con cá sấu nhỏ.”
FriedrichNietzche 1844-1900
Friedrich Nietzche (1844-1900), Triết gia Đức:  Thần Ki-Tô đã chết (Có đâu để mà chết? TCN) God is dead.  Chúng ta không nên đi đến nhà thờ nếu chúng ta muốn hít thở không khí trong lành (One should not go to church if one wants to breathe pure air.)
SirJamesPaget1814-1899
Sir James Paget (1814-1899), Y sĩ Anh:  Nơi công cộng cũng như trong tư gia, tôi không biết một cuốn sách nào mà lại là nguồn gốc của cách xử sự hung ác và tàn bạo như là cuốn thánh kinh (I know of no book which has been a source of brutality and sadistic conduct, both public and private, that can compare with the Bible.)
AlexandreDumas 1802-1870
Alexandre Dumas (1802-1870), Văn hào Pháp:  Tín đồ Ca-Tô và Tin Lành, trong khi thiêu sống và giết lẫn nhau, có thể cộng tác để nô lệ hóa những ngưới anh em da đen của họ (Catholics and Protestants, while engaging in burning and murdering each other, could cooperate in enslaving their black brethen.)
VictorHugo 1802-1885
Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp:  Khi anh bảo tôi rằng Thần của anh đã tạo ra anh theo hình ảnh của ông ấy, tôi trả lời rằng hắn ta phải thật là xấu trai (When you tell me that your deity made you in his own image, I reply that he must have been very ugly.)  Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.) .
EMILEZOLA 1840-1902
Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp:  Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên ông linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.)  Phải chăng khoa học đã thoái lui? Không phải! Chính Ca-Tô giáo đã luôn luôn phải thoái lui trước khoa học, và sẽ còn bị bắt buộc phải thoái lui (Has science ever retreated? No! It is Catholicism which has always retreated before her, and will always be forced to retreat.)
MikhailBakunin18141876
Mikhail A. Bakunin (1814-1876), Văn hào Nga:  Ki Tô giáo là sự từ bỏ hoàn toàn lẽ thường và lý trí (Christianity is the complete negation of common sense and sound reason.)  Thần học là khoa học về sự nói láo của thần thánh (Theology is the science of the divine lie.)
William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia A祉 Nhĩ Lan:  Hầu hết Âu châu, trong nhiều thế kỷ, đã bị ngập máu, máu đổ do sự chủ mưu trực tiếp hoặc với sự hoàn toàn chấp thuận của những người có quyền trong giới giáo sĩ (Almost all Europe, for many centuries, was inundated with blood, which was shed at the direct instigation or with the full approval of the ecclesiastical authorities).  Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Ca-Tô hay Tin Lành, đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)
AugustBebel18401913
August Bebel (1840-1913), Nhà xã hội Đức:  Ki Tô giáo là kẻ thù của tự do và văn minh. Nó buộc nhân loại trong xiềng xích. (Christianity is the enemy of liberty and of civilization. It has kept mankind in chains.)
GiuseppeGaribaldi 1807-1882
Giuseppe Garibaldi (1807-1882), Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Ca-Tô, chỉ còn lại Vatican ngày nay):  Vatican là con dao găm đâm vào tim nước Ý. (The Vatican is a dagger in the heart of Italy.)  Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.)  Giáo hội Ca-Tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do (The Catholic Church is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.)
SigmundFreud 1856-1939
Sigmund Freud (1856-1939), Nhà Phân tâm Aﯺ  Tôn giáo giống như là chứng bệnh suy nhược thần kinh của trẻ con (Religion is comparable to a childhood neurosis.)  Giáo hội Ca-Tô là đối thủ của mọi tự do tư tưởng (The Catholic Church so far has been the implacable enemy of all freedom of thought.)
GeorgeSantayana 1863-1952
George Santayana (1863-1952), Triết gia Mỹ:  Đối với Shakespeare, về vấn đề tôn giáo, sự chọn lựa nằm ở hoặc Ki Tô giáo hoặc không tin gì. Ông ta đã chọn không tin gì (For Shakespeare, in the matter of religion, the choice lay between Christianity and nothing. He chose nothing.)  Ki Tô giáo đàn áp tôn giáo, tra tấn và thiêu sống con người. Như một con chó săn, tôn giáo này đánh hơi và truy lùng kẻ lạc đạo. Tôn giáo này gây nên những cuộc chiến tranh, và nuôi dưỡng thù hận và tham vọng. Tôn giáo này thánh hóa sự tận diệt và sự chuyên chế (Christianity persecuted, tortured, and burned. Like a hound it tracked the very scent of heresy. It kindles wars, and nursed furious hatred and ambitions. It sanctified extermination and tyranny..)
BertrandRussell1872-1970
Bertrand Russell (1872-1970), Triết gia, Nhà Toán học Anh, tác giả cuốn Why I Am Not A Christian:  Quan điểm của tôi về tôn giáo giống như quan điểm của Lucretius. Tôi coi nó như là một bệnh chứng xuất phát từ sự sợ hãi và là nguồn gốc của sự khổ sở không thể kể được của loài người (My own view on religion is that of Lucretius. I regard it as a disease born of fear and as a source of untold misery to the human race.)  Nếu tôi nhớ không lầm, không có một lời nào trong các Phúc Âm ca tụng sự thông minh (So far as I can remember, there is not one word in the gospels in praise of intelligence.)  Đàn áp tôn giáo được sử dụng trong thần học chứ không ở trong số học (Persecution is used in theology, not in arithmetic.)
AlbertEinstein 1879-1955
Albert Einstein (1879-1955), Khoa học Gia Do Thái, Thuyết Tương Đối:  Tôi không thể quan niệm một Thần Ki Tô thưởng phạt tạo vật của chính mình (I cannot conceive of a God who rewards and punishes his creatures)
Henry Louis Mencken 1880-1956
H. L. Mencken (1880-1956), Văn hào Mỹ:  Nói một cách đại cương, tôi tin rằng tôn giáo là một sự nguyền rủa đối với nhân loại (I believe that religion, generally speaking, has been a curse to mankind.)  Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) * Thần học: một nỗ lực để giải thích cái không thể biết được bằng những lời không đáng để biết (Theology: an effort to explain the unknowable by putting it into terms of the not worth knowing.) * Tổng giám mục: một chức sắc Ki Tô cao chức hơn chức của Chúa Ki Tô (Archbishop: A Christian ecclesiastic of a rank superior to that attained by Christ.)
AlfredNorthWhitehead 1861-1947
Alfred North Whitehead (1861-1947), Toán gia và Triết gia Mỹ:  Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn của nhân loại (I consider Christian theology to be one of the great disasters of the human race)..
EdgarLeeMasters 1869-1950
Edgar Lee Masters (1869-1950), Thi sĩ Mỹ:  Nhiều cuốn sách đã được viết ra để chứng tỏ Ki Tô giáo đã làm suy yếu thế giới, rằng tôn giáo này đã gạt ra ngoài sự khai sáng và trí tuệ của Hellas để nhường chỗ cho một giáo lý mê tín và ngu xuẩn (Many books have been written to show that Christianity has emasculated the world, that it shoved aside the enlightenment and wisdom of Hellas for a doctrine of superstition and ignorance.)
HGWells 1866-1946
H. G. Wells (1866-1946), Tiểu thuyết gia Anh:  Cái đồ xấu ác nhất trong thế giới ngày nay là Giáo hội Ca-Tô Rô-ma (The most evil thing in the world today is the Roman Catholic Church.)
Culbert L. Olson Democrat 1939-1943
Culbert Olson, Thống đốc bang California, 1938-1943:  Tôi không hiểu làm sao mà người nào đọc thánh kinh mà lại có thể tin rằng đó là lời của Thần Ki-Tô, hoặc tin đó không phải là chuyện man rợ của một dân tộc man rợ (I don’t see how anybody can read the Bible and believe it’s the word of God, or believe that it is anything but a barbarous story of a barbaric people.)
SteveAllen 1921 - 2000
Steve Allen (1921 - ), Mỹ, tác giả 43 cuốn sách đủ loại:  Rất hiếm có một trang sách nào trong cuốn thánh kinh mà trong đó một người có đầu óc cởi mở không nhận thấy một sự mâu thuẫn, một chuyện lịch sử bất khả hữu, một sai lầm hiển nhiên, một sự kiện lịch sử không thể nào xảy ra (There is scarcely a page of the Bible on which an open mind does not perceive a contradiction, an unlikely history, an obvious error, an historical impossibility..);  Một người vô thần không ghét Thần Ki Tô, hắn chỉ không thể tin được là một Thần có thể hiện hữu. (An atheist does not hate God; he simply is one who is unable to believce that a God exist);  Cuốn thánh kinh đã được dùng để khuyến khích niềm tin vào sự mê tín thô thiển nhất và làm ngăn cản sự dạy những chân lý khoa học (The Bible has been used to encourage belief in the grossest superstition and to discourage the free teaching of scientific truths);  Chỉ sau khi tôi đọc cuốn thánh kinh từ đầu đến cuối tôi mới nhận ra rằng Thần Ki Tô trong đó thật sự là một bạo chúa thích trả thù, ác như quỷ, còn ác hơn sự khát máu điên rồ, sự dã man, sự tàn phá của những con người như Hitler, Stalin, Pol Pot, hoặc bất cứ kẻ sát nhân tập thể nào trong lịch sử cổ xưa hoặc hiện đại (It was only when I finally undertook to read the Bible through from beginning to end that I perceived that its depiction of the Lord God was actually that of a monstrous, vengeful tyrant, far exceeding in bloodthirstiness and insane savagery the depredations of Hitler, Stalin, Pol Pot, or any mass murderer of ancient or modern history.)
CarlSagan
Carl Sagan, Khoa học gia Mỹ:  Nếu các bạn muốn cứu con mình khỏi bị bệnh bại liệt, bạn có thể cầu Chúa hoặc mang nó đi chích ngừa.. Hãy chọn khoa học (If you want to save your child from polio, you can pray or you can inoculate.. Choose science)

 Ghi Chú: Trên đây chỉ là một số nhỏ điển hình những phát biểu về Thần Ki Tô và Ki Tô Giáo trong giới trí thức Âu Mỹ qua các thời đại. Tôi chỉ chọn đưa ra những lời phát biểu tương đối ngắn gọn. Nếu đưa ra hết những nhận định về Thần Ki Tô và Ki Tô giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng, tôi cần một cuốnsách dày vài trăm trang.


Thứ Hai, 27 tháng 7, 2020

Nhân đọc “Ông Trời trong thi ca Việt-Nam"

Nhân đọc “Ông Trời trong thi ca Việt-Nam"
của tác giả Bữu Biện
Sơn Dã Bần Phu

Ông Trời trong thi ca Việt-Nam.”
Đó là tựa đề cuốn sách của ông Bửu-Biền, mà tôi đã có dịp giới thiệu tác giả từ cuốn TÔN GIÁO  CHIẾN TRANH  HÒA BÌNH.  Sách gồm hơn 500 câu ca dao, tục ngữ, thi văn của Việt-Nam.  Kích thước 8-1/2” x 5-1/2” (21,5cm x 14cm), dày 160 trang.  Trình bày giản dị, mộc mạc, do Bến Đò Cồn sẽ phát hành tại Pháp năm 2008.
Nhân đọc cuốn “Ông Trời trong thi ca Việt-Nam”  bần phu xin lạm bàn về Ngài với vài dòng thô thiển sau đây.
“Ông Trời” là một danh xưng để chỉ một vị Toàn năng.  “Ông Trời” có quyền thưởng, phạt, sinh, diệt mọi chúng sanh, mọi vật trên trần gian.  Đó là một quan niệm về Thần quyền của hầu hết người Việt-Nam chúng ta.  Người có chút ít chữ nghĩa thì gọi “Ông Trời” là Thượng-Đế.  Kể cả người Trung-Hoa và Nhật-Bản trước đây cũng có quan niệm như vậy.
Đối với tín đồ Thiên-chúa-giáo, Ông Trời là “Đức Chúa Blời” (thời giáo sĩ Đắc-Lộ/Alexandre de Rhodes), hay còn gọi là Thiên-Chúa.
Đối với tín đồ Hồi-giáo, Ông Trời là Thượng-Đế Allad.
Đối với tín đồ Do-Thái-giáo, Ông Trời là Đức Chúa Yahweh, hay còn gọi là Jéhovah.
Đối với Lão-giáo thì Ông Trời là “Đạo”.
Đối với Khổng-giáo thì Ông Trời là “Thiên mệnh.”
Đối với Phật-giáo thì không bàn đến “Ông Trời”.
Cùng quan niệm về đấng Toàn Năng mà lại có đến ít nhất ba vị.  Tôn giáo nào cũng cho rằng chỉ có Thượng-đế của mình là đấng Chủ tể duy nhất trong vũ trụ.  Theo chân lý “Ông Trời” là ai?  Có “Ông Trời” hay không?  Nêú quả là chân lý thì chỉ có một, tại sao lại có đến ba, bốn?
Vậy Ông Trời, Thượng-Đế, Thiên-Chúa, Thánh Allad, Đức Chúa Trời Jéhovah đều chỉ có trong quan niệm về siêu hình mà thôi.  Mà đã là quan niệm thì rất mơ hồ.  Có thể sai, mà cũng có thể đúng.  Mà đúng vì đôi khi chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, rồi tưỡng lầm rằng đó là sự thật.  Hoặc là người ta cố gán cho đó là sự thật vì một ý đồ gì bất chánh nào đó.
Có lần thầy Tử-Lộ hỏi Đức Khổng-Tử về Thượng-Đế, quỷ, thần, Ngài khuyên rằng chưa biết đạo thờ người, sao biết được đạo thờ quỷ thần “Vị năng sự nhân, yêu năng sự quỷ “.  Tuy nhiên đối với thánh thần, ma quỷ thì nên kính trọng, nhưng tránh xa, “Kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị trí hỷ “.  Xin ghi chú thêm rằng có hai phái trong giới văn học cổ Trung-Quốc:  Một phái cho rằng Khổng-Tử tin có quỷ thần.  Một phái khác thì cho rằng Khổng-Tử không tin quỷ thần.  Vấn đề này nếu bàn xa thì dài lắm.
Còn đối với Phật-giáo thì sao?  Có một thanh niên Bà-La-Môn hỏi Đức Phật rằng thế gian này vô biên hay hữu biên, và từ đâu mà sinh ra.  Đức Phật chỉ mỉm cười và khuyên không nên hý luận.  Hý luận sẽ chẳng đi đến đâu, rồi loài người vì tranh luận mà làm mất hòa khí và gây chiến tranh chết chóc.  Thí dụ có một đứa bé bị bỏng, việc đầu tiên của ông bà cha mẹ đứa bé là đi tìm nguồn gốc làm cho đứa bé bỏng?  Rồi đi tìm nguyên nhân nào sinh ra lửa, hay điện làm cho đứa bé bỏng?  Rồi tìm hiểu lửa hay điện do đâu mà ra?  Rồi đi tìm tiểu sử ngừơi phát minh ra điện?  Hay là ông bà cha mẹ phải chửa trị vết bỏng cho đứa bé là cần thiết trước tiên?  Làm cho đứa bé hết nhức nhối, hết rên la, làm lành vết bỏng?  Đạo Phật cũng vậy:  Chúng sanh đang mê lầm đau khổ thì Đức Phật tìm con đường giải thoát khỏi đau khổ, thế thôi.
Quả vậy, từ khi có các loại thần giáo ra đời, vì mỗi tôn giáo không chấp nhận Thượng-Đế của tôn giáo kia mà nhân loại đã chịu đựng bao nhiêu là chết chóc tang thương, chưa kể chiến tranh vì lý do kinh tế, vì lý do muốn làm chủ tể thiên hạ.  Và niềm đau khổ tang thương đó vẫn đang còn tiếp diễn triền miên.  Nói đến Thượng-đế là nói về vấn đề tôn giáo.  Một vấn đề lớn của nhân loại đã làm đổ máu bao nhiêu sinh linh.  Và sẽ đổ máu vô cùng tận cho đến khi loài người bớt cố chấp.
Tuy nhiên, ngày nay vì khoa học phát triển nhanh chóng, muốn tôn giáo của giáo hội mình tồn tại, đã có giáo hội đang “update”, tiếng Ý gọi là Aggiornamento (renewal or updating) lại giáo điều của giáo hội mình:
Sau Cộng-đồng Vatican II ngày 25-1-1959, 16 văn kiện quan trọng (4 Constitutions, 3 Declarations, và 9 Decrees) được giáo hội công bố.   Trong đó Giáo-hoàng John XXIII cho phép các tín đồ Công-giáo La-Mã được thờ cúng tổ tiên theo phong tục của quốc gia các tín đồ.  Xin nhớ là trong ngày kỵ giổ, Đông-cung thái-tử Nguyễn-phước-Cảnh nhất định không lạy bàn thờ ông bà, mặc dù Giám-mục Bá-Đa-Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine) đã khuyên nhủ thái-tử nên lạy bàn thờ tổ tiên, vì đây là một cử chỉ tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên, một phong tục tốt đẹp của dân tộc.  Béhaine đã xin La-Mã cho phép tín đồ Kitô người Việt vẫn được giữ phong tục tốt đẹp này.  Nhưng lúc đó La-Mã sợ ảnh hưỡng tư tưởng Khổng-giáo làm lung lay lòng tin Đức Chúa Trời nên không chấp thuận.
Giáo hội La-Mã “update” giáo điều lại như thế nào?  Có nhiều điều được update, trong đó có nội dung Đức Giáo-hoàng John Paul II đã xác định lại rằng:
1--“Thiên-đường không phải là một nơi chốn trừu tượng hay hữu hình cụ thể chiếm một khoảng không gian trên chín tầng mây.  Mà Thiên-đường chỉ là mối liên hệ riêng tư, và sống động giữa cá nhân của chính con người với Chúa Ba Ngôi.”  (Heaven is not an abstraction nor a physical place amid the clouds, but a living personal relationship with the Holy Trinity). (Học Hội Giêsu Kitô Phục-sinh, Tuyên cáo 8, điều 1, trang 2.)
 Và
2--“Địa-ngục không phải là một nơi có những hình phạt do Thượng-đế đặt ra, nhưng chỉ là do kết quả của những thái độ và hành động con người tạo ra trong đời sống của họ.” (Hell is not a punishment imposed extremely by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life.) (Jude Webber, “Nor Fire or brimstone, but hell’s real, pope says.” Houston Chronicle, July 29, 1999, page 26A.)
Và nghe đâu cũng không còn danh từ Limbo nữa.   Đức Giáo-hoàng Benedict theo đề nghị của các Hồng-y sáng suốt đã bỏ từ Limbo này vào tháng 5-2007 rồi.  Tôi dùng chữ “nghe đâu”, vì tôi chưa kiểm chứng.  Hợp lý thôi, đã không còn nơi chốn thiên đàng địa ngục thì làm gì có limbo! 
Giáo-hoàng Paul II cũng đã đồng ý lập tòa án để xét xử hơn 100 (137?) vị thừa sai ở Mỷ bị tố cáo xâm phạm tình dục trẻ em.  Trước đây mỗi khi các vị thừa sai nào phạm tội gì thì tín đồ không được bắt lổi, mà bảo rằng sẽ do Thiên-chúa phán xét.
Và giáo hội La-Mã có thái độ cởi mở hơn đối với tôn giáo bạn:
Giáo-hội Công-giáo kính trọng sâu xa tất cả các tôn giáo bạn, luôn khuyến khích con cái mình nhìn nhận, bảo tồn và làm phát triển các giá trị thiêng liêng cũng như luân lý, văn hóa cũng như xã hội của các tôn giáo bạn, bằng con đường đối thoại và hợp tác một cách thận trọng và bác ái với các tín đồ các tôn giáo bạn, mà vẫn duy trì chứng tá đức tin và đời sống Kitô hữu”.  
(Trích trong tập Ra Khơi và các bài giảng của Hồng-y Sepe, Bộ trưởng Bộ Truyền giáo của Vatican, trong dịp viếng thăm Việt-Nam, tuyên ngôn liên lạc của Giáo-hội Công-giáo với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, số 2).

Ngày 4 tháng 12 năm 2005, khi đến cắt băng khánh thành Nhà Truyền-thống Văn-hóa và Đức-tin Công-giáo thuộc Tổng Giáo phận thành phố Hồ-chí-Minh, Đức Hồng-y Sepe đã dạy các tín đồ của mình rằng:
“…Tôi cũng mời gọi các giáo sư, sinh viên Công-giáo và những người thành tâm thiện chí hãy quyết tâm thực hiện những cuộc nghiên cứu nghiêm túc, khách quan và khoa học về lịch sử truyền giảng Tin mừng tại Việt-Nam, để hiểu thái độ của Giáo-hội Công-giáo đối với việc ngoại xâm, cũng như để biết việc đóng góp, việc cổ võ văn hóa, luân lý và tâm linh mà Giáo-hội Công-giáo đã mang đến cho xã hội Việt-Nam.  Đó là chân lý giúp giải thoát mọi mặc cảm tự ti hoặc tội lỗi có thể làm u ám trái tim và lương tâm.  Nếu trong quá khứ đã có những sai lầm thì đó sẽ là dịp tốt để chúng ta khiêm tốn xin lỗi dân tộc, mong sát cánh cùng với mọi người dân và các tôn giáo bạn mà xây dựng một đất nước công bình hơn và nhân bản hơn…”
(Hai đoạn văn trên trích trong cuốn Tãn mạn Phú-Xuân II của cư-sĩ, nhà sưu tập, nghiên cứu, bảo tồn cổ ngoạn Trần-đình-Sơn.)
Đối với tín đồ Kitô người Việt, ít ai biết đến những lời công bố, khuyên nhủ trên.  Giáo hội công giáo La-Mã tại Việt-Nam không muốn người Việt biết quá nhiều.  Một đàn anh trong giới kiến-trúc-sư cho hay rằng linh-mục Th. (bác ruột của anh ấy.) nói rằng từ 1927, La-Mã đã chấp thuận cho giáo dân được thành hôn với người khác tôn giáo mà KHÔNG bắt buộc người tôn giáo kia phải theo Catholic, nhưng con cái thì bắt buộc phải theo.  (Bởi vậy Vua Bảo-Đại vẫn không theo Catholic, cho đến khi nghe lời Monica đến rửa tội tại nhà thờ Saint Pierre de Chaillot, Paris XVI, năm 1988).   Những cởi mở này chỉ áp dụng giới hạn đối với người Việt mới đây thôi (vài chục năm).  Ngoài ra ép được ai thì ép.  Tuy nhiên hiện nay có một số linh mục (bằng đưòng dây gia đình, tình yêu) vẫn bắt buộc người kia phải theo Catholic mới được lấy con cái của họ. 
Qua 2 lời kêu gọi trên, Giáo-hội Công-giáo đã sáng suốt khuyên các tín đồ Kitô bằng những lời khuyên tốt đẹp.  Không như trước đây, trong “Phép giảng 8 ngày” có lời dạy rằng “…đánh tan Đạo Bụt thần…”.     Tôi đã hỏi kỷ một vị tu xuất từ Dòng Tên, ông ấy xác nhận là do Tòa-thánh La-Mã dạy phải giảng như thế.  Tự do tôn giáo ?!
Theo lời dạy của Đức Phật Thích-Ca, trong thế gian có hai hạng người mạnh và đáng kính:  Một là hạng người không bao giờ sai lầm.  Hai là hạng người đã sai lầm mà biết sửa sai.  Hạng người thứ nhất e không bao giờ có.  Đáng khen thay thái độ tốt đẹp này của Giáo hội La-Mã (chỉ ở trung ương La-Mã thôi, ở các địa phương còn tùy).  Khen thay!
Đọc Kinh Qur’an của Hồi-giáo, tôi thấy kinh dạy bổn phận con người đối với nhau rất là đầm ấm.  Có thể coi đó như là căn bản của nền luân lý trong cộng đồng tín đồ Hồi-giáo.
Nhưng đó là kinh kệ.  Trên thực tế, sau khi giáo chủ Mohamad qua đời, giáo hội đã phân hóa ra làm hai.  Và những cuộc tàn sát đẫm máu lẫn nhau đã xảy ra. Xin xem sách giới thiệu.
Tiện đây, tôi xin mượn lời giới thiệu để nói rỏ có “Ông Trời” trong Phật giáo không?
Trong suốt hơn bốn mươi năm đi hoằng pháp, Đức Phật không bao giờ nói đến tên, hay nói về một vị thần thánh siêu hình nào.  Giáo lý Phật-giáo Nguyên-Thủy không đượm màu huyền bí, siêu hình, hay “mầu nhiệm”.   Mãi đến năm 120 sau Công-nguyên, vua Kanishka bên Ấn-Độ triệu tập tất cả các tăng lữ tại kinh đô Ấn- Độ (bây gời là Kasmir), bàn bạc rồi hạ triết lý Phật giáo xuống thấp hơn một bậc, thần thánh hóa Đức Phật Thích-Ca, đặt thêm những vị La-Hán (Arahat), Bồ-Tát (Bodhisattwa).   Kể từ đó đặt cơ sở cho Phật-giáo Đại-thừa, hay còn gọi là Tân Phật-giáo (Will Durant, The Story of Civilisation), để dể giáo hóa dân chúng hơn.  Và tất cả các kinh điển chỉ tóm lược lại trong ba trăm ngàn câu thơ (Sustra).  Vì sao mà phải hạ thấp triết lý Phật-giáo vậy?  Vì hầu hết con người, nhất là đối với hạng dân dã, ai cũng nghĩ rằng tôn giáo phải là cái gì huyền bí, siêu phàm, và “mầu nhiệm” mới gọi là tôn giáo.   Những người có bằng cấp đầy mình mà còn mê tín thì tôi cũng xem như dân dả mà thôi.   Thần giáo chẳng qua cũng chỉ là một loại mê tín, nhưng mà mê tín hạng … cao cấp.  Chính vì trình độ nhân loại như vậy cho nên các vị thừa sai, hay các vị lãnh đạo tinh thần thường hay thần thánh hoá các đấng Giáo Tổ để dể bề giáo dục các giáo dân.  Một vị Tăng-Thống đã nói với tôi rằng Phật-giáo không phải là tôn-giáo.  Tại sao phải là thần giáo mới tốt?  Trong Đạo Phật không có Tôn thờ một Giáo điều nào.  Lúc Phật Thích-Ca sắp nhập diệt, một vị sư Bà-La-Môn hỏi Phật rằng ông ta muốn bỏ Đạo của ông ấy để theo đạo Phật.  Phật trả lời rằng không cần, miễn rằng thực hành theo Bát Chánh Đạo thì sẽ đạt Đạo thôi.  Phật còn dạy rằng không nên tin những gì các sư sãi nói, nếu xét thấy không hợp lý. 
Tóm lược những lời dạy của Đức Phật Thích-Ca, không có tính cách thần thánh thiêng liêng trong đó.  Điển hình là 14 điều răn của Phật, và 8 con đường tu hành chân chánh (Bát Chánh Đạo) tôi không thấy đã động gì đến tính cách siêu hình, thần thánh, “mầu nhiệm”, “ban ơn”, hay vì Phật gì cả.   Đối với Phật giáo, tu là sửa mình để cá nhân người đó được tốt đẹp hơn.  Nếu cá nhân tốt đẹp thì đương nhiên xã hội sẽ tốt đẹp hơn.   Phật Thích-Ca không bắt ai phải thờ phụng Phật như các tôn giáo thuộc loại thần giáo.   “... chiếc áo đen của một người Công-giáo theo đuổi chủ nghĩa Thần quyền lạc hậu không thể nào hòa hợp được….”   (Bạch Hạc Trần-Đức-Minh, cựu đại-tá Quân-lực Việt-Nam Cộng-Hoà, Một Thời Nhiểu Nhương 1945-1975, tr. 679).  Lucrèce (triết gia La-Tinh thế kỷ -I) đã nói rằng “Sự sợ hải tạo nên các thần linh.”  Sợ những sức mạnh ẩn náu trong lòng đất, trong cây cối, trong dòng sông…Vậy tôn giáo là để thờ các sức mạnh đó.  (Will & Ariel Durant, Bài Học Của Lịch Sử, NHLê dịch, tr.61).  Khoa học càng phát triển thì các quốc gia ở Châu-Âu càng ít tín đồ.   Ngày nay Thiên-chúa-giáo phát triển ở những quốc gia đang phát triển mà thôi.
Một tu sĩ đã từng khuyên rằng chỉ nên xem Đức Chúa Jesus, hay Phật Thích-Ca là những nhà ĐẠI VĂN-HÓA mà thôi.  Léon Tolstoi cũng chủ trương nên sống theo luân lý của Chúa Kitô, nhưng công kích những điều sai lầm của giáo hội Nga, chứ không coi Chúa Kitô như là một đấng thần linh.  Somerset Maugham cũng không tin vào kinh thánh.  Victor Hugo thì mỉa mai vị thừa sai chủ trì Nhà Thờ Đức Bà ở Paris.  Bà Pearl Buck nhìn các vị truyền giáo với con mắt không kính phục gì (mặc dầu cha mẹ Bà là những nhà truyền giáo).  Alexandre Dumas (cha) nói rằng Thượng-Đế không có thật, chỉ là ý niệm mà thôi.  Nếu có thật tại sao thế gian này xấu xa bỉ ổi đến thế? 
Theo Will Durant, sử gia Mỷ ( 1885-1981), thì kể từ khi nhà thiên văn học Ba-Lan, Nicola Copernic (1473-1543) chứng minh rằng trái đất không phải là trung tâm vũ trụ như mọi người thời đó vẫn tưởng, mà là 1 hành tinh quay chung quanh mặt trời.  Rồi Giodano Bruno (1548-1600), Galiléo Galilei (1564-1642) …. lần lượt công bố những thành quả khoa học, phát hành những cuốn sách khám phá về thiên văn, thì chủ nghĩa Hoài Nghi về Thượng-đế ra đời.
Rồi từ đó những giáo phái phát sinh từ đạo Thệ-phản (Tin-Lành) tuyên bố rằng mặc dù tin vào Thánh kinh nhưng cũng phải tin vào Lý Trí (gọi là Tự do Sát Tín).  Sau đó lại phê bình “Thánh kinh, bộ sách kỳ diệu đó thực ra là một tác phẩm KHÔNG HOÀN HẢO CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ THỂ LẦM LẨN”….  Rồi tới phong trào Tự-nhiên Thần-giáo ở Anh cho rằng “TÔN GIÁO CHỈ LÀ MỘT SỰ TÍN NGƯỠNG MƠ HỒ MỘT VỊ THƯỢNG-ĐẾ KHÔNG KHÁC THIÊN NHIÊN LÀ BAO”.  (Will & Ariel Durant, Bài Học Lịch Sử, Nguyễn-hiến-Lê dịch, trang 68). 
Ánh sáng khoa học càng trải rộng đến đâu, các vị thần linh, trong đó có cả các vị Thượng-Đế của các tôn giáo sẽ càng lui dần sâu vào bóng tối.  Và một ngày kia chỉ còn là chuyện hoang đường trong các câu chuyện thần thoại mà thôi.  Thí dụ điển hình là ngày xưa bên Ý cũng như Hy-Lạp, Ai-Cập, Ấn-Độ cũng thờ rất nhiều vị thần.  “ Sự sợ hải đã tạo nên các thần linh” …  (lời của Lucrèces, thi sĩ Latin, thế kỷ I trước CN); 
Nhưng sau khi Đức Chúa Jésus ra đời thì các vị thần kia đều lùi dần vào bóng tối, và chỉ thờ độc thần, Thiên-Chúa, mà thôi. “Khoa học là tôn giáo của con người tiến bộ.  Sau cùng thế hệ của chúng ta có thể là thế hệ “Thượng-Đế đã chết”.  (Will & Ariel Durant, Bài học Lịch sử, tr. 61 NHLê dịch).   Để biết những vị thần nào của Ý, của Hy-Lạp, Ai-Cập, Ấn-Độ, xin đọc cuốn “Ông Trời trong thi ca Việt-Nam”.  Nếu kể ra đây thì nhiều lắm! 
Theo nhận xét của người đàn anh đã nói ở trên, từng du lịch nhiều nước ở Châu Âu, Châu Mỷ, Châu Á nói rằng nước Pháp bây giờ chỉ có 12% dân số theo Roman Catholic, mặc dầu Catholic là quốc giáo của Pháp.  Các nhà thờ vắng tanh.  Chỉ có các cụ già đi lễ vào các chủ-nhật mà thôi.  Còn giới trẻ thì đến nhà thờ để …. chụp hình đám cưới cho đẹp!  
André Maurois cũng xác nhận rằng bây giờ giới trẻ không còn theo tôn giáo nữa (sách viết năm 1965, Lettre ouverte à un jeune home à la conduite de la vie/ Thư ngỏ gửi tuổi đôi mươi, Nguyễn-hiến-Lê dịch).  André Malraux cũng chẳng tin tưởng Thượng-Đế (André Malraux, La condition humaine/ Thân Phận Con Người, Lê Thanh Hoàng Dân và Vi Mai Phúc dịch).
Mặc dù tôn giáo là một vấn đề nhức nhối cho loài người từ hàng ngàn năm qua (Socratès, 469?-399, bị ép uống thuốc độc chết bởi giáo quyền Athène, Hy-Lạp).  Thí dụ như, chưa kể số người bị giết gồm các tín đồ Thiên-chúa-giáo và Phật giáo và chính cả tín đồ Hồi-giáo bởi những người Hồi-giáo, thì theo Lloyd M. Graham, trong Deceptions and Myths of the Bible (Secausus, N.J: Carol Publishing Group, 1999, page 464) số nạn nhân bị giết bởi giáo hội La-Mã là 250 triệu người.  Những người bị giết này bao gồm nhiều khoa học gia, tín đồ nhiều tôn giáo, kể cả Công-giáo La-Mã (mà không chấp nhận giáo điều của La-Mã). Tín đồ Phật-giáo không bị giết bởi Thiên-chúa giáo.
Nhưng khách quan mà nhìn, dù sao tôn giáo cũng có những hiệu quả tốt cho con người:
1-Thế giới được thanh bình hơn 600 năm, cho đến thế kỷ VII.
2-Người nghèo cảm thấy an phận không chống lại người giàu, vì người ta quan niệm rằng nghèo là do Thượng-Đế an bài.  Napoléon I cũng đã nói chính tôn giáo ngăn kẻ nghèo giết kẻ giàu.  (Nhưng mà ông ta cũng nói rằng thượng-đế đứng về phía những tiểu đoàn mạnh.)  Vì thế mà Tôn-giáo và Không Tưỡng là hai kẻ đối nghịch nhau.  Tuy thế, kể từ đầu thập niên 60, dưới thời Giáo-hoàng John XXIII Giáo hội La-Mã đã có sự tiếp xúc với Cộng-sản.  Nội dung này tôi đã nói trong một bài trước đây.  Vì quyền lợi mà họ buộc phải xích lại gần nhau thôi.  Người Mỷ đến đâu, quyền hành giáo hội La-Mã bị thu hẹp đến đó.  Vào thời gian ấy, Cộng-sản và khối Tư-Bản đang có chiến tranh lạnh.  Vậy thì La-Mã và CS phải đoàn kết để chống Mỷ chớ! (Chống ngầm thôi, xúi dục các nước đàn em, chống nhau công khai lộ liễu quá rồi khó ăn khó nói về sau.)
3-Người bịnh nan y, hoặc gặp hoạn nạn thì hy vọng sẽ được “cứu rỗi” bằng một “phép mầu” nào đó.   Bên Phật-giáo thì có “Phật Dược-sư độ”, “Phật Quan-Âm cứu độ”.
4-Người già sắp chết cảm thấy được an ủi và không sợ hải vì tin rằng “sẽ được lên Nước Chúa đời đời”, nếu tin vào Chúa.  Khoảng năm 1981 tại Sài-gòn, tôi đến viếng linh cữu thân phụ của bác sĩ Mẫn (nguyên thị trưỡng Đà-Nẵng thời Tổng-thống Diệm), một thân nhân của gia đình bác sĩ vui vẻ mà nói rằng ổng sẽ được lên Cõi Vĩnh hằng với Chúa, đâu có đi đâu mà buồn. 
Bên Phật-giáo thì có “các vị Phạn Thiên đón về cõi Trời Đâu-Suất, Phật A-Di-Đà đón về cõi Trời…..” (theo Phật-giáo Đại-thừa, Tịnh-độ tông).  Nhưng đối với Phật-giáo Nguyên-thủy, con người còn phải trả nghiệp (Karma/Kama), nếu chưa sạch nợ trần gian, không ai có thể trả nợ dùm được.  Có lẻ vì vậy mà Phật-giáo không hấp dẩn bằng các tôn giáo khác chăng?  Có sách thì nói rằng Phật giáo là tôn giáo của kẻ trí nên kẻ dân dã khó hiểu được, “Sắc bất dị không, không bất dị sắc.  Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưỡng hành nhược như thị …  Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa…..”   tiếng gì nghe khó lọt lổ tai quá, theo bên kia chỉ cần Đức Tin là xong, khỏe quá! 
Mùa Thu năm 2007 vừa qua, tôi gặp linh-mục Nguyễn-hữu-Triết, cha chánh xứ nhà thờ ở địa chỉ số 387 đường Lê-văn-Sĩ, phường 2, quận Tân-Bình (gặp cha để có chuyện riêng).  Tôi nói rằng “Cha ơi!  Con cái tui hắn lấy người Catholic cả, có đứa theo, có đứa không.  Tui chừ già rồi, nếu muốn theo, mặc dù lúc nhỏ học trường Dòng mỗi ngày đọc kinh 8 lần như kinh Kính mừng, kinh Lạy Cha…, bây giờ phải học kinh lại, hiểu kinh bộ lâu quá cha hí?  Già rồi học chi nổi nữa mà theo”. 
Cha Triết trả lời rằng “Bác chỉ cần Đức Tin thôi là đủ …. Chúa có 3 ngôi …  Thiên-Chúa sáng tạo muôn loài trong 6 ngày, ngày thứ bảy nghỉ”. (No over time!)  Chỉ cần đức tin thôi, khi chết được Chúa cho lên Thiên-đàng ngay.  Nghe sướng quá!
Như vậy mục đích ban sơ của tôn giáo là giáo dục con người.  Vì các vị giáo tổ nhận thấy xã hội đương thời loạn ly (bây giờ cũng vậy thôi!), nên cần có lý thuyết, giáo điều để răn đe.  Mà răn đe thì phải có thưỡng phạt.  Do đó mới đặt ra thiên-đường, địa ngục, niết-bàn… Nhưng sau đó, một số các vị lảnh đạo tôn giáo vì thu nhặt được nhiều tiền quá nên đã biến chất.  Có nhiều tiền thì có nhiều quyền hành…. Ôi thôi lắm chuyện, “no cơm ấm cật…”.  Phật Thích-Ca đã nói rằng: “Hãy nương theo ngón tay ta mà nhìn mặt trăng, chứ ngón tay ta không phải là mặt trăng”.  Khốn nổi số người tưởng nhầm ngón tay là mặt trăng lại quá nhiều (hay là làm bộ tưỡng nhầm vì ý đồ đen tối (?).
Đọc cuốn “Ông Trời trong thi ca Việt-Nam”, quý vị sẽ biết sơ lược về nội dung các kinh thánh và tiểu sử các vị giáo tổ các tôn giáo đó.
Riêng đối với người Việt-Nam không theo Thiên-Chúa-giáo, Ông Trời có tính cách dân chủ hơn.  Chúng ta có thể thay đổi được vận mệnh của mình nếu đức độ nhiều thì Ông Trời sẽ không phụ lòng người, “Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều” (Kiều).  Quan niệm này cũng gần gủi với quan niệm bên Phật-giáo Nguyên-thủy:  Con người có thể có cuộc sống khá hơn nếu đã trả bớt nghiệp, và gieo trồng thêm nhân tốt lành.  Nhưng sự khác biệt giữa Phật giáo và quan niệm của dân gian là nhân tốt lành này đem quả tốt lành đến cho con người chứ không phải do một thần lực nào mang đến.
Trân trọng xin giới thiệu cùng qúy độc giả muốn tìm hiểu về quan niệm “Ông Trời” của người Việt-Nam chúng ta.  Để hiểu rỏ hơn về tôn giáo, xin tìm đọc cuốn TÔN GIÁO  CHIẾN TRANH  HÒA BÌNH cũng do ông Bửu-Biền biên soạn.
Hoa-Kỳ vào Xuân Mậu Tý, 2008
Sơn dã bần phu
Nếu có thì giờ, quý vị có thể đọc thêm sách của:
-Kinh thánh Cựu ước Tân ước.
-Kinh Qur’an (tiếng Việt gọi là Kinh Côran) do Từ-công-Minh dịch.
-Sách Mặc-Môn. Mặc-Môn là 1 giáo phái được thành lập ngày 22-5-1838 , cũng thờ Chúa Jésus.
-Ông bà Will Durant, sử gia thế giới: The story of Civilisation, Văn minh Ấn-Độ, Bài học lịch sử, Nguyễn-hiến-Lê dịch.
-World Book, Encyclopedia volume UV.
-Nguyễn-hiến-Lê: Lão-Tử Đạo-đức kinh, Khổng-Tử
-Bửu-Biền, cựu giáo sư toán trung-học Miền Nam Việt-Nam, bào đệ cựu Thủ-tướng Bữu-Lộc thời Vua Bảo-Đại: Tôn Giáo Chiến Tranh Hòa Bình, Ông Trời trong thi ca Việt-Nam (sắp phát hành).
-Stéphano Nguyễn-mạnh-Quang, Master’s Degree in Education, Ohio University 1969, USA: Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt-Nam Cộng-Hòa Foundation, Thực Chất Của Giáo-Hội La-Mã, Việt-Nam Cộng-Hòa Toàn Thư, a poem for my children. 
-Charlie Nguyễn: Công-Giáo Bên Bờ Vực Thẳm. 
-Daniel Grandclément, Bảo-Đại Hay Những Ngày Cuối Cùng Của Vương-Quốc An-Nam.
-Bạch hạc Trần-Đức-Minh, cựu đại-tá quân-lực VNCH, chỉ huy tưởng trường Võ-Bị Thủ-Đức trước năm 75: 1945-1975 Một Thời Nhiễu Nhương. 
-Vương-Hồng-Sển: Khảo Sát Về Đồ Sứ Men Lam Huế, tập thượng. 
-Trần-Đình-Sơn: Tãn mạn Phú-Xuân II. 
-Thượng-tọa Thích Hạnh-Bình (giáo sư Phật học viện Viên-Quang ở Đài-Loan) dịch cuốn Tìm Hiểu Phật-Giáo Nguyên Thủy.
-Tam-tạng Pháp-sư Huyền-Trang: Đại Đường Tây Vực ký, Thích Như-Điển dịch.
-Piyadassi: Con Đường Cổ Xưa, tỳ kheo Pháp-Thông dịch.
-Thiền sư Thích Nhất-Hạnh: Nẻo Về Của Ý. An Lạc Từng Bước Chân.
-Thiền sư Thích Thanh-Từ:  Bước Dầu Phật Học, Tu Là Chuyển Nghiệp.
-Đại sư Thật-Hiền (đầu thế kỷ 18) : Bài Văn Khuyến Khích PHÁT TÂM BỒ ĐỀ.  Thượng tọa Thích Trí-Quang dịch:
-Ngoài ra có thể đọc thêm: André Maurois, nhà văn, nhà giáo dục, viện sĩ Hàn-Lâm-Viện Pháp; Léon Tolstoi, Victor Hugo, Somerset Maugham, Pearl Buck, Alexandre Dumas, André Malraux : tiểu thuyết gia.
Bài viết này được tham khảo từ các sách của các tác giả trên.
Ghi chú: Nếu trong quý vị có ai không vui vì những lời thô thiển trên, thì xin xem như đây chỉ là lời của kẻ phàm phu tục tử trong lúc trà dư tửu hậu, không có chi đáng quan tâm, thưa quý vị.  Nếu rộng rãi được như vậy thì vãn bối đội ơn muôn phần. 
Có người khuyên tôi không nên nói gì về vấn đề tôn-giáo, vì e bị đụng chạm.  Tôi trả lời rằng đừng leo lên cây thì đâu sợ gió rung.  Nếu không muốn đụng chạm, sao họ bắt người khác tôn giáo phải bỏ tôn giáo của mình đi để theo tôn giáo của họ mới được lấy con họ?  Đây là một cách đối xử hủ lậu và vô ý thức.  Nếu họ đuối lý thì bảo đừng nên nói, e đụng chạm.  Trong quá khứ, nếu giáo hội không làm gì mang tiếng thì ai nói gì được.  Cách nói chuyện này giống y cộng-sản trước đây.  Nếu họ đuối lý, bị chụp là phản động, tư sản bán nước.  Người Việt nói chung thường hay chụp mũ những ai mình ghét.   Một kinh nghiệm bản thân:  Vài tháng sau tháng Tư năm 1975, một cán bộ ngoài Quãng-Bình (quê tôi) vào Nam.  Tôi là thằng hay bẻo mép, ngứa mồm ngứa miệng.  Họ tuyên truyền lý thuyết CS, tôi nghe ngứa tai nên cải lý, bí quá anh ấy nói:  “Cậu coi chừng địa phương bắt cậu đó….”  Trước năm 75, nếu bị trái ý, kẻ đối thoại bị chụp mũ là cộng-sản. Sau năm 75, nếu bị trái ý, bị chụp mũ là CIA, cựu tình báo.  Ở nước ngoài nếu bị trái ý thì bị chụp là công-sản. 
Chụp mũ là một cách để hại nhau của những kẻ thiếu đạo đức.  Cách đối xử này đã có từ ngàn xưa.   Bên Tàu, Việt-Nam thì bị chụp mũ tội phản nghịch với triều đình, chém đầu!  Bên Âu-châu thì bị chụp mũ là quỷ sứ, lên máy chém!  treo cổ!  lên giàn hỏa!  Vì những khoa học gia đã khám phá, phát minh khoa học……ngang quyền Thượng-Đế, vì chỉ có Satan mới làm được việc này!  Ôi thôi, quyền hành và tiền bạc là chuyện muôn thưở của con người mà!
Xin quý vị đừng nghĩ đến chuyện tôn giáo nữa mà bị … lên giàn hỏa! 
Sơn dã bần phu cẩn bút


Các đề tài về Ông Trời trong sachhiem.net:


Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2020

TỪ LÚC CHIA LY

Từ lúc chia ly phượng héo sầu
Ngoài trời lất phất hạt mưa ngâu
Tay vàng khói thuốc ôm thương nhớ
Tiếc mối duyên đầu chẳng đậm sâu
Chia tay 12 cùng “Khoảnh khắc mùa hè”

PHAI DẤU GIÀY SÔ

Tháng tư súng gãy lâu rồi
Anh còn luyến tiếc bồi hồi ích chi ?
Giã từ cuộc chiến ra đi
Quê người phiêu bạt mấy khi tương phùng

Gửi về đất Mẹ nhớ nhung
Nỗi buồn lính trận oai hùng năm xưa
Thế thời - Thời thế đẩy đưa
Xin anh khép lại chuyện xưa năm nào

Chung nhau tổ quốc đồng bào
Mối thù Quốc - Cộng chôn vào hư vô
Bao năm dưới gót giày sô
Thu về một mối cơ đồ Rồng Tiên
Tháng Tư anh chớ ưu phiền
Vui ngày Đất Mẹ nối liền Bắc - Nam.

Vài mẫu chuyện với “Tháng Ba gãy súng” | ĐỒNG HƯƠNG KONTUM