Tìm kiếm Blog này

Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2020

Sự Kiện Đức Mẹ La Vang - Một cú lừa vô tiền khoáng hậu của kito giáo tại Việt Nam

CÓ AI TẬN MẮT TRÔNG THẤY
Bà Maria hiện RA TẠI LA-VANG
I/ "NGÔI CHÙA THÀNH NHÀ CHÚA" TRONG HOÀN-CẢNH NÀO?
A) TÀI-LIỆU:
Trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, tác-giả Trần Văn Trí viết:
Vào đầu thế-kỷ 19, tiếng đồn về Đức Bà linh thiêng lan rộng khắp nơi. Trong những năm đầu 1820-1840, các người Công Giáothuộc các làng Ba Trừ, Cổ Thành và Thạch Hãn có chung nhau xâymột ngôi chùa ngay tại nơi Đức Mẹ hiện ra, gọi là chùa Ba Làng. Nhưng sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng thuận rằng Đức Bà hiện ra là “bên giáo”, nên họ đã nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo và các gia-đình Công Giáo tu sửa “ngôi chùa thành nhà Chúa” (Lm Hồng Phúc: Đức Mẹ La-Vang, tr. 35).
B) NHẬN XÉT:
1- Ta hãy tìm hiểu xem “ngôi chùa đã trở thành nhà Chúa” trong tình-hình nào. Báo “Thằng Mõ”, số 852 ra ngày 15-8-98, có đăng bài “Sự-Kiện La Vang: Trang Sử Tử-Đạo” của tác-giả Nguyễn Văn Thông, trong đó có đoạn:
Giám-mục Tabert ghi lại rằng, giáo-hội Miền Nam, khi vua Minh Mạng ra chỉ-dụ cấm đạo, đã có hàng trăm giáo-hữu bị bắt giam tù, bị tra-tấn và bị án lưu-đày hoặc xử-tử...
a. Trong năm 1832, Chỉ-huy-trưởng đoàn quân hộ-vệ cho vua Minh Mạng là Tống Viết Bường cùng với những sĩ-quan và binh-sĩ cấp dưới bị bó-buộc ký giấy xuất-giáo. Ông Bường và 12 người không chịu ký. Họ bị truyền phải mang gông và đánh đòn... Đầu roi chì quất xuống xé thịt văng ra... Trước cực-hình dã-man ấy, sáu binh-sĩ không chịu nổi... Ông Bường và sáu người khác chịu tù ngục và tra-tấn cho tới cùng rồi bị mang đi chém đầu vào tối ngày 23-10-1833 ở Thợ Đúc, Huế (Bùi Đức Sinh: Giáo-Hội Công Giáo ở VN, tập III, trg 46-47).
b. Ngày 8-9-1835, giáo-sĩ Marchand bị bắt tại Gia Định, bị đóng cũi như một con vật mang về Huế cùng với Lê Văn Viên7 tuổi, con của Lê Văn Khôi... Giáo-sĩ bị khép tội cùng với Lê Văn Khôi làm loạn chống lại triều-đình Minh Mạng... Lí-hình liền lấy kìm trong lò lửa kẹp mạnh vào hông giáo-sĩ, thịt cháy xèo bốc khói... Ngài và ba người bị khép tội đồng-lõa cùng với em Viên phải án lăng-trì. Họ bị lột hết quần áo, bị trói vào cáng điệu đến pháp-trường ở nhà thờ họ Thợ Đúc... Lí-hình lấy kìm kẹp từng miếng thịt lôi ra cho một lí-hình khác cầm dao phay cắt miếng thịt ấy. Chúng bắt đầu bằng việc cắt dương-vật của người tử-tội trước, rồi đến hai miếng thịt vú, hai miếng bả vai, cắt hai tay, hai bên đùi rồi hai bắp vế... cho đến khi còn lại bộ xương dính những sợi thịt đỏ lòm. Sau đó lí-hình chặt đầu vị giáo-sĩ... tháo giây trói cho xác ngã sấp xuống đất, lấy búa chặt thành bốn khúc theo bề ngang rồi bổ mỗi khúc làm đôi theo bề dọc... Đầu của giáo-sĩ Marchand được mang đi các tỉnh treo ở chợ, sau đó bỏ vào cối mà xay (Phan Phát Huờn: Louvet: La Cochinchine Religieuse, QII, trg. 92) và nhiều, nhiều vụ khác.
2- Thời-kỳ 1820-1840 mà tác-giả Trần Văn Trí kể trên, rơi đúng vào chính triều-đại Minh Mạng, giai-đoạn bách-hại Ky Tô Giáo khắc-nghiệt như thế. Và sử-gia Trần Trọng Kim đã viết trong “Việt Nam Sử-Lược”: “Lúc bấy giờ không phải là một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi, phần nhiều những quan-lại cũng đều một ý cả cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt thêm.” Lê Văn Khôi và đồng-đảnghùng mạnh đến độ chiếm được 6 tỉnh Miệt Trong chỉ trong một tháng, và cố-thủ thành Gia-Định suốt 3 năm trời, ở tận miền Nam xa vời; thế mà Minh Mạng cũng đã dẹp tan và trừng-trị được, khủng-khiếp như trên. Vậy thì một nhóm giáo-dân Ky Tô Giáo tay không, ẩn trốn cách kinh-đô và ảnh-hưởng của nhà vua chỉ trong 60 cây số(Huế - Quảng-Trị), làm sao không bị phát-hiện*1, mà còn công-khai tu sửa ngôi chùa thành nhà Chúa, trong khi các cuộc giết đạo vẫn còn tiếp-diễn thêm 40-60 năm nữa (cho đến khi Pháp đến, vào thập-niên 1880)?
*CHÚ-THÍCH 1a:
Lưu ý: “Tiếng đồn về Đức Bà linh thiêng lan rộng khắp nơi”, và dân La Vang (gồm cả người không-Công-Giáo) thì sống bằng nghề đốn củi đem bán cho cả các làng (không Công Giáo) bên ngoài La Vang.
*CHÚ-THÍCH 1b:
Giám-mục Tabert viết về các sự việc xảy ra trong khoảng 1820-1840 trong một nước Việt Nam đã được thống-nhất từ hơn hai mươi năm trước (Gia Long lên ngôi từ năm 1802) mà vẫn mô-tả đó là Miền Nam (lúc còn sông Gianh của thời Trịnh Nguyễn phân-tranh). Tabert lại còn không nhớ địa-danh Phường Đúc mà gọi nó là Thợ Đúc. Làm sao tin được bài viết của Gm này?
3- Nếu Đức Mẹ thực-sự hiện ra tại La Vang năm 1798, tại sao giáo-dân phải đợi cho đến 22-42 năm sau (1820-1840) mới nghe tiếng đồn, mới xây ngôi chùa, rồi sau mới bàn với nhau rằng Bà linh-thiêng*2 hiện ra là “bên*3 giáo”? Hơn nữa, chính họ là “dân Ky Tô Giáo từ 3 làng Ba Trừ, Cổ Thành và Thạch Hãn” đã xây ngôi chùa ấy, tại sao họ không nói hẳn ra (đại-khái: "đến nay thì chúng ta đã có thể chính-thức công-nhận nó là nhà Chúa, vì Bà hiện ra đích-thực là Đức Mẹ Maria"), và báo cho bên không-Công-Giáo biết như thế"), chứ cần gì phải chờ về sau mới bàn (giữa dân Công Giáo) với nhau rằng Bà ấy là của "bên Công Giáo"? Tóm lại, tất cả chỉ thuần-túy là tin đồn, và không có ai tận mắt trông thấy Đức Mẹ hiện ra ở La Vang!
*CHÚ-THÍCH 2: Bên Phật-Giáo cũng có một Bà: Đức Phật Bà Quán-Thế-Âm.
*CHÚ-THÍCH 3: Từ-ngữ “bên” cho thấy là có ít nhất 2 bên liên-can trong hiện-vụ, và cách dùng chữ lương-thiện như thế chứng-tỏ là bên không-Công-Giáo trước đó cũng đã có nhìn-nhận ngôi chùalà của bên Phật-Giáo rồi.
II/ TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO NGƯỜI TA BẮT ÐẦU NGHE NÓI ÐẾN VIỆC ÐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA VANG?
A) TÀI-LIỆU:
Trong bài “Linh-Địa La Vang” đăng trên báo “Mẹ Việt-Nam”, số 102 ra ngày 15-8-98, tác-giả Nguyễn Lý Tưởng viết:
1- Năm 1797, nhân khi thủy-quân của Nguyễn Ánh tiến ra tận cửa bể Tư Dung (cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh Thừa Thiên, thì Lê Văn Lợi, một vị quan của Tây Sơn đã đề-nghị vua ra lệnh bắt hết người Công Giáo và các linh-mục, lấy lý-do dân theo đạo ủng-hộ Nguyễn Phúc Ánh... Vua Cảnh-Thịnh đã ra mật-lệnh cho các địa-phương hẹn đến tháng 5-1798 sẽ bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như linh-mục, không để sót người nào... Đức giám-mục Jean De Labartelle lúc đó đang trốn tránh ở làng Di Luân (Quảng Trị)... Tin đó được loan truyền ratrong giới Công Giáo và dân theo đạo ở các làng Trí Bưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa bèn chạy vào miền núi La Vang để ẩn núp. Và chính trong thời-gian đó Đức Mẹ đã hiện ra với họ.
2- Tương-truyền Đức Mẹ đã hiện ra tại gốc cây đạ cổ-thụ. Dân làm nghề rừng thường đến đó van vái, về sau họ nghe nói có một Bà linh thiêng hiện ra tại đây nên họ đã đắp một cái nền dưới gốc cây đa gọi là nền vọng và rào chung quanh. Khoảng đầu đời Minh Mạng, 1820, dân ba làng Thạch Hãn, Ba Trừ và Cổ Thành chung nhau làm một ngôi miếu nơi đó, về sau họ nghe nói ngày xưa có một Bà bên đạo hiện ra ở chỗ đó nên cả ba làng đồng thuận nhường chỗ đó lại cho dân bên đạo Công Giáo. Giáo-dân thời đó đã đem việc này trình cho vị linh-mục ở xứ Trí Bưu (Cổ Vưu) và cha xứ*4 đã cho sửa-sang nơi đó thành một nhà thờ bằng tranh. Đây là ngôi nhà thờ đầu tiêntại La Vang.
3- Vua Đồng-Khánh lên ngôi (1885, vào cuối thế-kỷ 19), chủ-trương tìm kiếm hòa-bình... Cũng trong thời-điểm này, cha xứ Trí Bưu(Cổ Vưu) đã hỏi những giáo-hữu lớn tuổi trong giáo-xứ khi đến giờ lâm-chung, chịu phép giải tội và xức dầu thánh*5, rằng: “Con phải thề nói sự thật, con có nghe cha mẹ, ông bà trước kia nói gì về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang không?” Tất cả những người đó đều trả lời: “Có” và “chuyện xảy ra đã gần 100 năm rồi.” Đức Mẹ đã hiện ra trước đó khoảng 100 năm. Bằng-chứng là năm 1886 (88 năm, sau năm 1798) Đức Cha Caspar (Lộc) ở Huế đã quyết-định xây đền thờ kính Đức Mẹ hiện ra, theo cha mẹ, ông bà kể lại, cách nay cả trăm năm, (tức là vào cuối thế-kỷ 18, dưới thời Tây Sơn).
B) NHẬN XÉT:
1- Pigneau vừa là giám-mục (cao-cấp trong giới truyền-giáo của đạo bị cấm) vừa là người Pháp (ngoại-quốc cướp nước), lại giúp kẻ thù là Nguyễn Phúc Ánh và lãnh-đạo các tín-đồ tại địa-phương; thế mà vua Cảnh-Thịnh lại nhắm vào các giáo-dân (là người chạy theo) trước cả các kẻ cầm đầu? Ngoài ra, giám-mục Jean De Labartelle có mặt tại làng Di Luân, Quảng-Trị, tỉnh của La Vang, thế mà không hề viết gì làm chứng về vụ gọi là Đức Mẹ hiện ra ngay vào lúc đó (1798) tại La Vang trong vùng hoạt-động của mình.
2- Lạ-lùng hơn nữa là ngay chính các giáo-dân từ 3 làng Trí Bưu (vâng, Trí Bưu tức Cổ Vưu), Hạnh Hoa và Thạch Hãn, là những tín-đồ Ky Tô Giáo đã chạy đến tị-nạn tại La Vang và được kể là đã thấy Đức Mẹ hiện ra hứa che chở họ ngay chính vào lúc Đức Mẹ hiện ra (năm 1798), thì lại không lập, dù chỉ là một cái bàn, để thờ Đức Mẹ; mà phải chờ đến hơn hai mươi năm về sau (1820-1840) để các cư-dân thuộc nhiều tín-ngưỡng khác nhau của 2 làng khác, Ba Trừ và Cổ Thành, đến đó cùng với làng Thạch Hãn của La Vang đứng ra làm một ngôi chùa đặt tên là Chùa Ba Làng (dù cho có bài viết là ngôi miếu), để thờ một Bà mà họ thấy là không phải Đức Bà của Ky Tô Giáo (cho đến về sau khi họ nghe nói rằng đó là Đức Mẹ họ mới "nhường lại" cho bên Công Giáo).
*CHÚ-THÍCH 4: Có đáng tin không: dưới triều Minh Mạng, khi sự cấm đạo ngày càng gắt-gao, hằng trăm giáo-dân đã bị bắt, giết (kể cả giáo-sĩ Marchand ở tít từ trong Gia Định), mà vẫn còn có một cha xứ hiện-diện bên ngoài vùng ẩn-nấp La Vang, để các tín-đồ từ trong đó ra tiếp-xúc và báo-cáo tình-hình?
*CHÚ-THÍCH 5: Có đáng tin không: khi có cha xứ Trí Bưu(gồm cả La Vang, là nơi ẩn-trú của giáo-dân từ 3 làng nói trên và từ nhiều vùng khác nữa, thí-dụ “cách đó 60 cây số” nghĩa là từ Huế) màcha xứ ấy không nghe biết gì về tin đồn truyền ra từ 1798 cho đến hơn hai thập-niên về sau (1820-1840) mới nghe về việc có Bà linh-thiêng hiện ra cách đó chỉ 4 cây số, và dân đến báo là đã “đồng thuận nhường chỗ đó lại cho bên Công Giáo”?
3- Giám-mục Caspar là người quyết-định xây đền thờ kính Đức Mẹ vào năm 1886 (sau khi thực-dân Pháp đã đô-hộ Việt-Nam từ 1884), tức là ông đã hoàn-toàn tự-do trong tình-hình mới (giáo-dân Ky Tô Giáo vươn lên), nghiên-cứu kỹ-càng về biến-cố này; thế mà ông cũng không hề lưu lại một bút-tích nào (dù là báo-cáo chính-thức gửi về Tòa Thánh hay là nhật-ký cá-nhân, thư riêng) về vụ Đức Mẹ hiện ra tại La Vang: phải chăng vì ông cũng thấy vụ đó là không đáng tin?
4- Người đọc thấy ngay là cha xứ Trí Bưu đã lợi-dụng giờ phút lâm-chung của người già-cả, muốn “hồn được lên thiên-đường”,mà sợ không được cha xứ cho lên, nên bắt họ phải thề*6 là có nghe ông bà cha me trước kia kể lại, chuyện đã xưa gần trăm năm... Chỉ cần có một tiếng “Có!” giản-dị, không cần chi-tiết gì cả. Tại sao việc này không được thực-hiện trước năm 1885, khi mà trước đó giáo-dân La Vang đã có thể công-khai biến nhà chùa thành nhà Chúa (1820-1840), suốt 40-60 năm qua? Và tại sao cha xứ không hỏi các giáo-dân mạnh-khỏe trẻ-trung? Chắc-chắn lý-do là vì “sáng-kiến” này mới được nảy-sinh vào năm 1885 (Đồng-Khánh lên ngôi), họ tính làkhông còn ai đủ già để biết và để cãi lại sự việc cho là xảy ra đã gần trăm năm.
*CHÚ-THÍCH 6: Cha xứ bắt thề như thế là để căn-cứ vào đó mà lập hồ-sơ về chuyện hiện ra, và sở-dĩ thế là vì từ 1798 đến 1885 (Đồng Khánh thân-Pháp lên ngôi) ròng-rã 87 năm, không hề có một hồ-sơ tài-liệu nào cả về chuyện Đức Mẹ Hiện Ra, dù cho sau này người ta nói là hiện ra vào năm 1798, nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo vào khoảng 1820-1840. Và tại sao lại không có một tài-liệu nào, khi mà ít nhất là một bức thư của linh-mục Lôrensô Lâu về việc viếng thăm Cổ Vưu (Trí Bưu) đã được gửi về La Mã từ thời 1691 (hơn một trăm năm về trước), và khi mà Tòa Thánh Vatican đã có thể trực-tiếp giải-quyết chuyện nội-bộ La Vang từ thời 1717-1739 (hơnnừa thế-kỷ về trước)?
Xin thưa: là vì thật ra không hề có việc Đức Mẹ (của Ky Tô Giáo) hiện ra tại La Vang.
Về vấn-đề này, tôi đã có đọc được một tài-liệu từ trước năm 1975. Sau khi cộng-sản kiểm-soát Miền Nam, một chiến-dịch gọi là“bài-trừ văn-hóa-phẩm nô-dịch và đồi-trụy” đã được phát-động, và tôi mất hết tủ sách của mình.
Vào đầu năm 1998, nhất là sau khi Giáo-Hoàng John Paul IIvào ngày 19-6-1998 công-khai nhìn-nhận tầm quan-trọng của “Đức Mẹ La Vang” và tỏ ý muốn tái-thiết nhà thờ La Vang để kỷ-niệm 200 năm ngày “Đức Mẹ” hiện ra lần đầu tiên, tôi đã phổ-biến một bài-viết trên một số diễn-đàn liên-mạng, tôi nhớ trong đó có diễn-đàn tiếng Anh vnforum@vnforum.org của Tiến-Sĩ Trần Đình Hoành, để bác-bỏ câu trả lời “Có” của các tín-đồ già đang hấp-hối khi Cha Xứ Trí Bưuhỏi là có nghe nói gì về sự hiện ra của “Đức Mẹ” hay không, rồi Cha Xứ căn-cứ vào đó mà báo-cáo về các lần hiện ra.
Sau đó hai tháng, chính Giáo-Hoàng John Paul II, trên tờ“L'Observatore Romano” ra ngày 12-8-1998 đã thành-thực và thẳng-thắn xác-quyết rằng: Tiếc thay, hiện nay tại Tòa Thánh không có một văn-kiện nào về các lần “Đức Mẹ” hiện ra ở La Vang. (Phải mất một thời-gian sau tờ báo ấy mới tới tay độc-giả Việt-Nam.)
Ngẫu-nhiên, vì quá hăng say trong việc góp phần tích-cực của mình vào ngày đại-lễ Kỷ-Niêm 200 Năm, một nhân-vật Ky-Tô-Giáo liên-hệ là Ông Nguyễn Lý Tưởng vào ngày 15-8-1998 đã cho đăng báo bài-viết trích trên: “cha xứ Trí Bưu (Cổ Vưu) đã hỏi những giáo-hữu lớn tuổi trong giáo-xứ khi đến giờ lâm-chung, chịu phép giải tội và xức dầu thánh rằng: “Con phải thề nói sự thật, con có nghe cha mẹ, ông bà trước kia nói gì về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang không?” Tất cả những người đó đều trả lời: “Có” và “chuyện xảy rađã gần 100 năm rồi.” Đức Mẹ đã hiện ra trước đó khoảng 100 năm.
Vì sợ không được Cha Xứ cho lên Thiên Đàng, các “chứng-nhân” sắp lìa đời ấy đã phải trả lời là “Có” nghe nói về các lần “Đức Mẹ” hiện ra, cả trăm năm trước, rất lâu trước lúc chính họ được sinh ra đời (chứ họ không đích-thân thấy). Điều đó giải-thích lý-do tại sao Tòa Thánh Vatican phủ-nhận các lần “Đức Mẹ” hiện ra tại La Vang.
Tuy thế, họ vẫn chống-chế cho rằng các tài-liệu ấy có lẽ đã bị tiêu-hủy dưới thời Minh Mạng, Tự Đức*7: Họ giả-vờ coi như không có ai có thể gửi gì ra khỏi xứ Huế và nước Việt Nam trong suốt 42 năm trường (từ 1798, đến 1840 là năm Minh Mạng qua đời); họ đã quên mất thời-gian 18 năm (1802-1819) dưới thời Gia Long, mà vì mang ơn người Pháp nên vua không nặng vấn-đề cấm đạo; hơn nữa, họ đã tảng-lờ tình-trạng người Pháp đô-hộ Việt Nam hơn 60 năm(1884-1945) và coi như các phần-tử thực-dân Ky Tô Giáo này không biết phụng-vụ Đức Mẹ ngay tại thuộc-địa của mình, nhất là sau khi đã có những vụ hiện ra tại Lourdes ở Pháp năm 1858 và tại Fatima ở Bồ Đào Nha năm 1917!
5- Ta cũng gặp được một óc tưởng-tượng khác người: Trong khi các bài viết khác nói rằng mãi đến 1820-1840 giáo-dân Ky Tô Giáo tại La Vang mới nghe tiếng đồn về việc Đức Mẹ hiện ra ngày xưa, thì tác-giả Trần Văn Trí trong bài “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ" số 832 lại viết: “Bỗng nhiên (trong năm 1798) họ thấy một bà đẹp-đẽ mặc áo choàng hiện ra gần một cây đa đại-thụ, mà họ nhận biết ngay là Đức Mẹ.
Những “nhân-chứng” ấy nhận biết ngay tại chỗ vào năm 1798rằng đó chính là Đức Mẹ, thế mà giáo-dân phải đợi cho đến 22-42 năm sau (1820-1840) mới nghe tiếng đồn, mới xây ngôi chùa, mà cũng chưa bàn là Bà linh-thiêng thuộc về "bên ta"; và trong lúc đó (1798) chính giám-mục Jean De Labartelle có mặt tại tỉnh địa-phương, thế mà không có một chứng-tích nào, tài-liệu viết nào của ông về sự-kiện ấy được lưu hồ-sơ. Chỉ nội một chi-tiết đó đã đủ để vô-hiệu-hóa tất cả các chi-tiết khác về vụ hiện ra.
Cũng như trong các bài viết khác, tất cả chỉ là nghe nói, tiếng đồn, tương-truyền, và mỗi lần lại mỗi khác nhau và mâu-thuẫn nhau.
6- Ta lại có thêm một nguồn ngoại-sử qúy-báu, không phải là về Đức Mẹ mà là về Cây Đa: linh-mục Pierro Gheddo viết về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La Vang cũng như các sự ngược-đãi Ky Tô Giáo tại Việt Nam, đã đặt nhan đề cho sách của mình là “The Cross and the Bo-Tree” (Cây Thập-Giá và Cây Bồ-Đề).
Lm Pierro Gheddo quả đã thực-tế gọi hẳn cây đại-thụ là cây bồ-đề thay vì cây đa. Cây Bồ Đề thông-thường là cây của nhà chùa, của Đức Phật; và lẽ tất-nhiên Đức Mẹ Maria của Ky Tô Giáo không bao giờ muốn đến gần, nói gì dùng nó làm điểm tiếp-cận để xuất-hiện trước tín-đồ của mình!
Dù sao, cây đa ở đây hẳn thuộc về bên không-Công-Giáo, dù là hồi đó hay là bây giờ; và dân La Vang đến đó cầu-nguyện là dân đa-tín, tin thờ nhiều thần (kể cả ma quỷ, là những hình bóng chập-chờn thỉnh-thoảng hiện ra nơi các cây đa), rất lâu trước khi có dân Ky Tô Giáo đến đó tị-nạn rồi sau mới nghe tiếng đồn về Bà linh-thiêng...
7- Tác-giả Trần Văn Trí trong “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98, viết: “Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam trong phiên họp ngày 13-4-61 đã cho đền thờ Đức-Mẹ La Vang làm Đền Thờ Toàn-Quốc Dâng Kính Trái Tim Vô-Nhiễm Đức Mẹ và nhận Linh-Địa La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.” Báo “L'Osservatore Romano” của Vatican ra ngày 12/19-8-98thì viết rằng : “Trong bức thư chung ngày 8-8-61 của các giám-mục Việt Nam, La Vang được chọn làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.”
Vậy là ngày 13-4-61 hay ngày 8-8-61?).
*CHÚ-THÍCH 7: Họ nói là các bút-tích về vụ Đức Me hiện ra có lẽ đã được giữ trong hồ-sơ của nhà thờ Huế và bị thiêu-hủy trong hai cuộc chiến địa-phương: vào năm 1833 dưới thời Minh Mạng, và vào năm 1861 dưới thời Tự Đức. Thật ra, trong năm 1833 có việc triều-đình dẹp loạn Nông Văn Vân ở Lạng-Sơn & Cao-Bằng ngoài Bắc, và loạn Lê Văn Khôi ở Gia-Định trong Nam; và trong năm 1861có quân Pháp và I Pha Nho đến đánh Quảng-Nam, xúi Tạ Văn Phụng ra Bắc dấy binh ở Quảng-Yên; nhưng trong các thời-điểm ấy ở kinh-đô Huế thì vẫn bình yên: làm sao mà hồ-sơ nhà thờ ở Huế bị thiêu-hủy được. Huống nữa, hồ-sơ vụ này không phải chỉ có ở Huế mà thôi.
Chính tác-giả Nguyễn Văn Thông đã viết: “Về các sử-liệu liên-hệ, chúng ta có khá nhiều để đối-chiếu... với các sử-liệu như thư viết tay, sổ-sách ghi tên giáo-hữu..., những bản phúc-trình của từng khu-vực truyền-giáo gởi về Bộ Truyền-Giáo ở Roma, ở Paris, ở các nhà dòng Tên, dòng Đa Minh... có chi-nhánh ở Macao, Penang, Nhật, Phi Luật Tân, Thái Lan..."
Và, như tác-giả Nguyễn Lý Tưởng đã viết: “Lm StanilasNguyễn Văn Ngọc đã trích dẫn một đoạn trong bức thư của Lm Lôrensô Lâu, về việc viếng thăm Cổ Vưu (Trí Bưu) ở vùng Dinh Cát(Quảng Trị) đề ngày 17-2-1691 gởi về Roma”: Như thế rõ-ràng là các báo-cáo từ vùng Dinh Cát (gồm có La Vang) đã được gởi về thấu tận Roma từ hơn một thế-kỷ (1691-1798) trước khi có vụ gọi là “Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La Vang. Lại nữa, tác-giả Trần Văn Trí cũng đã viết: “Vài Nét Lịch-Sử Về La-Vang: 1717-1739: xảy ra một số xáo trộn màTòa Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...”: Như thế hiển-nhiên là, lần này nữa, Tòa Thánh đã nắm vững tình-hình La Vang từ hơn nửa thế-kỷ(1739-1798) trước vụ "hiện ra".
Do đó, tài-liệu viết về sự xuất-hiện của Đức Mẹ tại La Vang, nếu có, thì phải đã có tại Tòa Thánh Vatican ngót một thế-kỷ rưỡí, trước cuộc chiến đầu tiên trong 2 cuộc chiến 1833 1861 mà báo L'Osservatore Romano của Tòa Thánh đổ lỗi là có lẽ đã tiêu-hủy hết hồ-sơ liên-quan.
8- Tóm lại, người đọc có thể kết-luận rằng: trong ngót một thế-kỷ rưỡi sau vụ gọi là Đức Mẹ hiện ra (từ 1798 đến 1945), cả thực-dân Pháp lẫn các chức-sắc Ky Tô Giáo thuộc nhiều quốc-tịch khác nhau đã rất lương-thiện, vì họ không hề chính-thức công-nhận (bằng lời nói, chữ viết lưu lại) mà chỉ chiều theo tương truyền trong giới giáo-dân địa-phương mà thôi về sự "hiện ra" của Đức Mẹ tại La Vang, bởi lẽ chuyện đó là vô căn-cứ, không có người nào tận mắt trông thấy Đức Mẹ hiện ra. Và chỉ đến khi giáo-dân Ngô Đình Diệm lên làm thủ-tướng, rồi tổng-thống, của Việt Nam Cộng-Hòa(1954-1963) thì chuyện hiện ra mới được làm to lớn lên (nhưng nay thì chính Tòa Thánh Vatican đã phủ-nhận rồi - xin xem Phần VIII).
Rõ-ràng lập-trường của Vatican trong vụ nhà thờ La Vang là chỉ dựa vào báo-cáo và đề-nghị của các thừa-sai tại địa-phương, mà giai-đoạn này thì họ chịu hoàn-toàn ảnh-hưởng của Tổng-thống Ngô Đình Diệm và Tổng Giám-Mục Ngô Đình Thục của Miền Nam Việt-Nam
https://www.facebook.com/groups/443140173110305
Trong hình ảnh có thể có: 3 người

TẢN MẠN VỀ CÁI MÀNG TRINH BẰNG ĐỒNG CỦA BÀ ĐỒNG TRINH

Kitô: Bà Maria đồng trinh, không chồng mà chửa (ba cha con nhà Giê-su làm cho chửa lúc nào không hay, nếu là loài người thì sẽ bị tội quan hệ bất chính với vợ người khác, hoặc tội hiếp dâm gây hậu quả nghiêm trọng) và khi sinh Giê-su ra thì vẫn đồng trinh.
Tin lành: Bà Maria đồng trinh, không chồng chửa (ba cha con nhà Giê-su làm cho chửa) và khi sinh Giê-su ra thì hết đồng trinh.
Các bạn giáo dân cho hỏi, khi Giê-su được sinh ra trong hang đá là sinh thường, sinh mổ, hay chui từ hậu môn hay lỗ nào ra vậy? Hay ông ấy cũng chui ra theo bí tích như cách ông ấy chui vào?

- Sinh thường: Hẳn là bà Maria có cấu tạo cơ địa co giãn rất tốt. Hoặc ông Giu-se là bố nuôi của Giê-su đã có cuộc cách mạng khâu vá màng trinh cho bà Maria (Kinh Thánh không ghi chép lại)
- Sinh mổ: như trên, Giu-se là người đầu tiên thực hiện ca mổ đẻ trong hang đá. (Cũng không thấy ghi trong kinh thánh).
- Sinh theo cách của thần thánh dù bà Maria là người thường: Đó là tự nhiên Giê-su hô biến và có mặt trên đời chứ không chui ra từ đâu, như cái cách ba bố con ông ấy đánh úp làm bà Maria có bầu.
- Cũng là sinh, như không chui ra như người thường, mà chui ra từ các lỗ khác, như hậu môn, lỗ rốn,...
- Lý giải khác của Kitô và Tin lành:....
https://www.facebook.com/groups/1993155514291442

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2020

SÁCH KINH CÔNG GIÁO VÀ TÁC HẠI CỦA NÓ (6)

(xin mời xem từ phần 1... trong diễn đàn)
6. BẦY QUẠ TRÊN THÂN XÁC NGƯỜI ĐÀN BÀ DO THÁI
Tại Việt Nam chỉ có một dòng tu Công Giáo duy nhất do người Việt Nam sáng lập là Dòng Đồng Công. Danh hiệu "Đồng Công" là chữ tắt của danh hiệu "Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc" (The Co-Redemptrix). Dòng này do LM Trần Đình Thủ sáng lập vào cuối thập niên 1940 do lệnh của Giáo Hoàng PIO XII. Thoạt tiên, trụ sở dòng đặt tại làng Liên Thủy (gần với làng Hành Thiện - Nam Định). Sau 1954, dòng dời về xã Tam Hà - Thủ Đức. Sau 1975, một số thầy tu Dòng Đồng Công tới định cư ở Missouri lập nghiệp từ hai bàn tay trắng. Ngày nay, chi nhánh Dòng Đồng Công hải ngoại này đã trở thành một đại công ty kinh doanh lòng sùng kính Đức Mẹ với những cơ sở hết sức lớn lao rải rác khắp nơi. Trụ sở chính đặt tại Carthage Missouri MO. 64836,USA với những công trình kiến trúc vĩ đại. Với số giáo dân hải ngoại vừa đông đảo vừa khá giả, thêm vào đó là tài kinh doanh vượt bực của các thầy tu, Dòng Đồng Công ngày càng làm ăn khấm khá phát tài, tiền vô như nước! Tôi rất tiếc chưa có dịp đi hành hương "Đất Thánh" Missouri của Công Giáo Việt Nam hải ngoại, nhưng đã được coi mấy cuốn băng video của cơ sở ngoại vi của Dòng Đồng Công là Câu Lạc Bộ Văn Hóa Tố Như (Box 66, Vienna – VA 22183 – Fax (702) 319-9489) cũng đủ thấy sự khai thác thương mại đại qui mô của dòng tu Việt Nam này. Tôi thật kinh ngạc phục tài thao lược "tay trắng làm nên" và tài mê hoặc quần chúng của những chuyên gia Thánh Mẫu Học Việt Nam (Vietnamese Mariologists).
Trong thời gian gần đây, CLBVH Tố Như mới cho ra lò một bộ băng video "Ave Maria, Mẹ yêu Dấu" gồm 4 cuốn :
1. FATIMA – Mẹ là niềm hy vọng
2. LỘ ĐỨC – Mẹ là nguồn yêu thương
3. LA VANG – Mẹ củng cố đức tin son sắt
4. GUADELOUP – Chứng tích mẹ yêu dấu
Thông điệp chính yếu trong những lần "Đức Mẹ hiện ra", nếu có thật, là khuyến cáo các tu sĩ, nhất là các linh mục, phải cải thiện đời sống để cứu nguy giáo hội Công Giáo đang bên bờ diệt vong. Nhưng các tu sĩ hoàn toàn làm ngơ trước những khuyến cáo này của Đức Mẹ. Trái lại, họ chỉ biết chú tâm vào việc khai thác thương mại lòng sùng kính ngây thơ của giáo dân dành cho Đức Mẹ, hiện thân của tình mẫu tử theo nhân tính tự nhiên. Nếu Đức Mẹ là Đấng Hiển Linh như niềm tin của họ thì Đức mẹ đang hiện diện khắp mọi nơi, cần gì phải tổ chức những cuộc hành hương rềnh rang tốn phí mà chỉ những kẻ nhiều tiền lắm bạc mới kham nổi. Từ nhiều năm qua, Dòng Đồng Công đã tổ chức nhiều cuộc hành hương tới những địa danh nổi tiếng về phép lạ của Đức Mẹ như Fatima ở Bồ Đào Nha, Lộ Đức (Lourdes) ở Pháp, Núi Mẹ Sầu Bi tại Oregon. Hàng năm, Dòng Đồng Công tổ chức "Đại Hội Thánh Mẫu" thu hút năm, sáu chục ngàn người từ khắp nơi qui tụ về "Thánh địa" Carthage – Missouri.
Đây là dịp cho các nhà thần học hoang tưởng về khoa học "Thánh Mẫu Học" (Mariology) trổ tài hùng biện thuyết giảng về các phép lạ của Đức Mẹ để thỏa mãn nhu cầu ham chuộng phép lạ vô bờ bến của giáo dân Việt Nam. Trong số các chuyên gia về Thánh Mẫu Học nổi tiếng, chúng ta phải kể đến "nhà văn" Phạm Đình Khiêm, tác giả cuốn "Đức Mẹ La Vang Là Nữ Vương Chiến Thắng". Linh Mục Barnabê Nguyễn Đức Thiệp, cựu Giám Tỉnh Dòng Đồng Công tại Hoa Kỳ, "nhà khảo cứu" Nguyễn Đức Tuyên, Giáo sư Trần Ngọc Vân tức "nhà văn" Trần Phong Vũ. Trần Ngọc Vân là người đã đặt tên cho cuốn sách mới toanh về Đức Mẹ là cuốn "Mẹ Maria Trong Ánh Sáng Đức Tin" 285 trang, giá 10 đô, của tác giả Ngưỡng Nhân Lưu Âu Nhi, xuất bản tại Hòa Kỳ tháng 10.2000. Nếu coi băng video của Câu lạc bộ Văn hóa Tố Như, chúng ta sẽ được nghe nhà thần học hoang tưởng trẻ măng là Linh Mục Phan Hữu Ngọc, tiến sĩ Thánh Mẫu Học thuộc dòng Đồng Công thuyết giảng.
Cơ quan tuyên truyền chính yếu của dòng Đồng Công là Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ. P.O Box 836, Carthage – MO 64836, phone (417) 358-8296. Cũng theo báo này thì từ xưa đến nay, Đức Mẹ đã hiện ra khắp nơi trên thế giới hơn 30.000 lần. Mỗi lần Người hiện ra đều có những phép lạ khác nhau và mặc sắc phục khác nhau. Chắc là Đức Mẹ có khả năng nói thông thạo mọi ngôn ngữ trên thế giới nên Người mới có thể trực tiếp truyền đạt mệnh lệnh của Người tới đàn con của Mẹ thuộc mọi chủng tộc. Hay mỗi lần Đức Mẹ hiện ra lại cần phải có thông dịch viên ? Tôi vẫn thắc mắc không biết khi Đức Mẹ "hiện ra" ở La Vang trên 200 năm trước đây với giáo dân Quảng Trị, Người có mặc váy và quấn khăn mỏ quạ không ? Người có biết ăn trầu bỏm bẻm không ? Và Người nói chuyện với giáo dân La Vang Quảng Trị bằng giọng Bắc kỳ, Nam kỳ hay bằng giọng rặc Quảng Trị ? Phải chăng Đức Mẹ đã phát âm theo kiểu "Nược cô còn nọng hay là nguồi"? Xin các nhà thần học Công Giáo thông thái làm ơn giải thích dùm, nếu không thì đồng bào có quyền nghĩ rằng những chuyện Đức Mẹ hiện ra chỉ là những chuyện bịp và quý vị Thánh Mẫu Học chỉ là hạng lưu manh ngụy trí thức chuyên nghề lừa gạt đám tín đồ khờ dại để hành nghề bất lương với mục đích kiếm tiền một cách đốn mạt hèn hạ mà thôi.
Tôi không xa lạ gì với Dòng Đồng Công. Tôi đã đến thăm nhà dòng từ buổi sơ khai vào tháng 7/1950 tại nhà xứ Liên Thủy Bùi Chu, lúc đó tôi là cậu học trò 13 tuổi. Thầy giáo dạy tôi tiểu học lúc đó dẫn tôi và mấy đứa cùng trạc tuổi.
7. GÓP Ý VỚI QUÝ VỊ TRÍ THỨC NGOÀI CÔNG GIÁO
A. Về phương diện tổng quát :
Giáo hội Công Giáo luôn khuyến khích tín đồ thường xuyên đọc kinh vì đó là cách tốt nhất để nhồi sọ giáo dân các tín điều nhảm nhí và làm tê liệt óc phán đoán của giáo dân khiến cho họ không còn biết suy xét gì khác hơn là ngoan ngoản cúi đầu tuân phục mọi mệnh lệnh của Vatican. Các sách Kinh Nguyện đã được các chuyên gia của giáo hội soạn sẵn và đã được nghiên cứu chắt lọc hết công phu qua nhiều thời đại nên các sách kinh này đã trở thành những công cụ chiến tranh tâm lý cực kỳ tinh vi của bọn đế quốc nham hiểm. Do đó hậu quả tâm lý của sự tự kỷ ám thị và sự lập lại nhiều lần, tất cả những giáo điều dù vô lý đến đâu cũng đều trở thành những chân lý tuyệt đối trong đầu óc của những kẻ có thói quen đọc kinh cầu nguyện hằng ngày. Bằng các sách Kinh Nguyện, Vatican đã đào luyện nên những tập thể giáo dân tuyệt đối trung thành với chúng trong hầu hết các quốc gia trên khắp thế giới. Những tập thể giáo dân cuồng tín này luôn luôn sẵn sàng phạm mọi tội ác phản bội đồng bào và dân tộc để thực hiện mọi âm mưu phá hoại của đế quốc. Hầu hết các chính quyền gặp phải hoàn cảnh này đều không đám thẳng tay đàn áp vì sợ gây "thánh chiến" và sợ bị dư luận gán cho tội vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do tôn giáo. Nhờ đó, Vatican đã trở thành tên đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc tinh thần (spiritual imperialism).
Muốn chận đứng những tác hại của cuốn sách kinh, trước hết chúng ta hãy cố gắng giải thích cho đồng bào của chúng ta nắm được những sự thật về đạo Công Giáo và hiểu rõ bộ mặt thực rất đểu cán của nó. Sự thật lịch sử chứng tỏ Công Giáo La Mã không phải là một tôn giáo mà chỉ là một âm mưu vô cùng thâm độc của đế quốc La Mã được ngụy trang dưới lớp vỏ tôn giáo giả tạo mà thôi. Nhiều công trình nghiên cứu đa diện của giới học giả Tây phương cận đại chứng minh rằng hầu hết những kẻ đứng đầu giáo hội ở Vatican là những kẻ vô thần, vô đạo đức và độc ác (Godless, immoral and wicked). Chúng chỉ giả vờ là những kẻ đạo đức mà thôi. Bọn đầu não "Công Giáo La Mã ở Vatican là một tổ chức tội ác hình sự cao cấp". Chỉ vì kỹ thuật phạm tội của chúng đạt tới mức tinh vi siêu đẳng vượt thời đại nên ít ai nhận ra được bản chất vô cùng độc ác và nham hiểm của chúng mà vẫn cứ lầm tưởng chúng là những người thánh thiện. Tu sĩ được giáo dân xưng tụng là "các đấng chủ chăn" thực chất chỉ là quỉ mang mặt người. Vatican là sào huyệt của Mafia đội lốt tôn giáo lưu manh nguy hiểm nhất thế giới vì chúng là những kẻ sát nhân ác độc nhưng lại được đám đông tín đồ khờ dại cuồng tín kính trọng và vâng lời chúng tuyệt đối. Đó là lý do tại sao trong gần 17 thế kỷ qua chúng đã gây ra biết bao thứ tội ác trên khắp thế giới mà bóng ma của chúng vẫn cứ tiếp tục bao trùm cả nhân loại.
Thực chất Công Giáo cũng không phải là Ki-tô Giáo (Christianity) vì đế quốc La Mã đã ra sức tiêu diệt Ki-tô Giáo rất ác liệt trong hơn 3 thế kỷ đầu Công Nguyên. Từ năm 325 đến cuối thế kỷ 4, đế quốc La Mã lập ra đạo mới là đạo Công Giáo (Catholicism) trên xác chết của Ki-tô Giáo nguyên thủy bằng cách tiêu diệt các giáo phái Ki-tô còn sót lại dám chống Công Giáo. Đồng thời chúng hủy diệt các dấu tích thật về Chúa Jesus còn sót lại ở Jerusalem, ngụy tạo Thánh Kinh, xuyên tạc lịch sử, đốt phá các thư viện và đốt các sách thuộc văn minh nhân bản Hy Lạp. Sỡ dĩ đế quốc La Mã phải diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp vì nền văn hóa này hoàn toàn đi ngược lại bản chất phi nhân bản (inhumanity) của Công Giáo La Mã do chúng mới thành lập. Tội ác tiêu diệt văn hóa Hy Lạp của đế quốc La Mã đã làm cho nền văn minh của nhân loại bị chậm lại cả ngàn năm. Từ năm 325 trở đi, đế quốc La Mã không hề ngược đãi Công Giáo mà chỉ lo củng cố và bành trướng tôn giáo này mà thôi vì Công Giáo là con đẻ của đế quốc. Đến thế kỷ 5, sự tiêu diệt nền văn hóa nhân bản cổ xưa của Hy Lạp gần như hoàn toàn đến nỗi tổng Giám mục Chrysotom phải khoe rằng : "Mọi dấu vết về triết học và văn chương của thế giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt đất" (Every trace of the old philosophy and literature of the ancient world has vanished from the face of the earth – Bible Myths by Doane p. 436).
Tiến sĩ Rivera đã rất có lý khi ông viết như sau : "Tổ chức Công Giáo La Mã không phải và chưa bao giờ là một giáo hội Ki-tô. Nó là con điếm đã được tiên tri mô tả trong sách Khải Huyền (cuốn sách cuối cùng trong bộ Thánh Kinh Tân Ước) ". Đám tín đồ Công Giáo khốn khổ đã bị nó phản bội và đang phải đối phó với thảm họa về tinh thần. Bọn người nguy hiểm nhất là những kẻ bề ngoài rất sùng đạo, đặc biệt nguy hiểm khi chúng qui tụ lại thành tổ chức và nắm những vị trí chính quyền. Bọn chúng được kính trọng sâu xa bởi những kẻ ngu dốt không biết gì về những động lực của bọn chúng ở phía sau sân khấu là hoàn toàn có tính cách vô thần và chỉ để nhắm đến quyền lực". (The Roman Catholic institution is not a Christian Church and never was. Prophetically she is the whore of Revelation. The poor Roman Catholic people have been betrayed by her and are facing spiritual disaster. The most dangerous men are those who appear very religious, especially when they are ignorant of their ungodly push for power behind the scene).
Kẻ gia nô văn hóa số một của Vatican ở Việt Nam là Linh Mục Phan Phát Huồn, thuộc dòng Chúa Cứu Thế, tác giả cuốn Việt Nam Giáo Sử (hai tập), xuất bản lần đầu vào năm 1962. Từ đó đến nay, cuốn sách này được giới "trí thức" Công Giáo thường xuyên sử dụng như một tài liệu tham khảo sử học chân chính. Tôi chưa cần đề cập đến phần nội dung của cuốn giáo sử này, chỉ riêng một đoạn Linh Mục Huồn viết trong bài tựa (trang 20) cũng đã phạm phải hai điều sai lầm nghiêm trọng về lịch sử : "Máu (tử đạo) đã nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quí làm cho đất phì nhiêu tươi tốt. Lấy võ lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người Công Giáo thì chẳng những người Công Giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm... Các hoàng đế Roma muốn tiêu diệt người Công Giáo thì ngày nay trên thủ đô Roma phất phới trước gió cách oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho giáo quyền của giáo hội".
Sai lầm thứ nhất của Linh Mục Huồn là đã ngộ nhận Ki-tô Giáo nguyên thủy (the Early Chistianity) với Công Giáo La Mã (Roman Catholics). Lịch sử thế giới đã chứng minh : Trong 3 thế kỷ đầu Công Nguyên, Ki-tô Giáo không có nhà thờ mà chỉ có phòng hội (synagogue), không biết Thiên Chúa Ba Ngôi là gì, không thờ ảnh tượng, không tin và không thờ bà Maria đồng trinh. Thậm chí họ cũng không thờ Jesus mà chỉ coi ngài như một bậc thầy khôn ngoan mà thôi, do đó không có thánh lễ Misa, không có phép Mình Thánh Chúa.. Cuối thế kỷ 3, vị giám mục nổi tiếng nhất thời đó là Arius, người Hy Lạp, đã sáng tác ra những bài thơ tóm tắt giáo lý của Ki-tô Giáo nguyên thủy : "Thiên Chúa là đấng duy nhất không được sinh ra bởi ai, đấng duy nhất vĩnh cửu, duy nhất thật, duy nhất khôn ngoan. Jesus là một tạo vật giống như chúng ta". Năm 325, Arius cũng được Constantine mời họp công đồng Nicaea cùng với các giám mục Ki-tô khác như Athanasus và Marcellus. Các vị giám mục này giữ vững niềm tin Ki-tô nguyên thủy nên không chịu ký tên công nhận kinh Tin Kính của Constantine. Kết quả là Arius bị Constantine giết chết năm 336, Athanasus và Marcellus bị bắt đưa đi đày. Hàng ngàn tín đồ Ki-tô bị đế quốc sát hại. Mười bốn năm sau, Marcellus được thả ra. Ông viết sách lên án Công Giáo là tà đạo "Tritheism" có nghĩa là đạo thờ ba Thiên Chúa ám chỉ là một thứ Đa thần giáo (Paganism) với những tín điều bịa đặt và hoàn toàn trái ngược với Ki-tô Giáo nguyên thủy là một độc thần giáo chân chính (The Real Monotheism). Năm 340, đế quốc La Mã chính thức đưa tôn giáo do chúng thành lập lên thành đạo chính thức của toàn đế quốc và đặt tên cho nó là Công Giáo (Cattolica). Tất cả những gì là đặc trưng của Công Giáo ngày nay đều do đế quốc La Mã bày đặt ra sau năm 325. Từ đó chẳng có hoàng đế La Mã nào muốn tiêu diệt người Công Giáo vì Công Giáo và đế quốc La Mã là một. Những nhận định của Linh Mục Huồn là hoàn toàn sai trái vì những điều đó, trái ngược với lịch sử đã được các yếu tố khách quan xác nhận.
Chúng ta không nên quên một điều rất thực tế là trong các loại sách Công Giáo, không có sách nào quan trọng cho bằng các sách Kinh - Nguyện. Đại đa số các gia đình giáo dân không có sách Thánh kinh nhưng gia đình nào cũng có ít nhất một cuốn sách Kinh Nguyện. Đại đa số giáo dân không đọc Thánh Kinh (Bible) nhưng đã là giáo dân thì nếu không thuộc nhiều cũng phải thuộc một số Kinh Nguyện cần thiết. Các bài kinh nguyện là chủ chốt hình thành tư tưởng của tập thể tín đồ chứ không phải là Thánh kinh hay một thứ sách nào khác.
Từ đầu thập niên 1990 đến nay, khắp thế giới bùng lên phong trào giải trừ Ki-tô Giáo với hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn bài báo giá trị, tấn công mọi mặt khiến cho tôn giáo này đã bị lung lay tận nền tảng của nó. Điều đáng chú ý là hầu hết các tác giả của các sách báo này đều là những người Ki-tô Giáo tỉnh ngộ (recovering christians) trong thế giới Tây phương, trong số đó đặc biệt có nhiều tác giả nguyên là những tu sĩ cao cấp (đáng chú ý là những tu sĩ thuộc Dòng Tên) hoặc là những giáo sư chuyên khoa tôn-giáo-học tại các trường đại học danh tiếng trên thế giới. Cũng trong thời gian đó, tại hải ngoại chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều sách báo Việt ngữ có nội dung lên án đạo Công Giáo và đặc biệt tố giác tính cách phản dân tộc của Công Giáo Việt Nam. Nhưng hầu hết các sách báo Việt ngữ này đều là sản phẩm của quý vị Việt kiều trí thức ngoài Công Giáo, khác với những sách chống Công Giáo ác liệt nhất ở các nước Âu Mỹ hầu như đều là sản phẩm tinh thần của những người Công Giáo tỉnh ngộ.
Trước 1975, tại miền Nam Việt Nam, hầu như không một ai dám viết sách báo bằng Việt ngữ để công khai và trực diện đã kích Công Giáo. Điều đó dễ hiểu vì miền Nam Việt Nam dưới hai thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa, áp lực chính trị của Công Giáo quá mạnh. Bọn mật vụ Cần lao, bọn chính trị hoạt đầu Công Giáo cũng như bọn cha cố Mafia không từ bỏ một thủ đoạn ác độc đê tiện nào mà không dám làm để triệt hạ những người dám lên tiếng chống bọn chúng. Tập san "Tiếng Loa Cảnh Báo" của nhóm Công Giáo cực đoan do cựu nghị sĩ Trương Tiến Đạt chủ biên, xuất bản tại San Jose tháng 11.1998 đã viết: "Cộng Sản chiếm chính quyền và quyết tâm diệt đạo nhưng chỉ phá được cảnh yên vui sống đạo, phá nhà thờ, nhà trường, các hội đoàn và cản trở các hoạt động tôn giáo nhưng đã không phá được đức tin và lòng mộ đạo. Hơn nữa, số người mới theo đạo Công Giáo lại còn nhiều hơn thời trước. Rõ ràng Cộng Sản Việt nam chỉ biết phá đạo cách vụng về và đã thất bại (trang 39). Lối phá đạo của Cộng Sản không nguy hiểm vì đó là sự tấn công từ bên ngoài và dùng sự cưỡng bách là chính (tr. 40). Công Giáo sợ nhất là sự phá đạo từ trong phá ra !”
Thứ đến, Công Giáo rất sợ sự giáo dục và tự do tư tưởng vì đó là những thứ vũ khí hữu hiệu nhất để tiêu diệt mê tín chẳng khác nào dùng ánh sáng để tiêu diệt bóng tối. Căn bản của lòng cuồng tín tôn giáo là sự ngu dốt. Giáo dục và tự do tư tưởng soi rọi ánh sáng vào những vùng tối tâm linh thì sự mê muội tôn giáo phải đội nón ra đi. Chính nhờ kết quả của giáo dục và tự do tư tưởng tại các nước dân chủ tự do Âu Mỹ mà Công Giáo La Mã đang lâm nguy dẫy chết. Dùng cưỡng bách và đàn áp để diệt đạo là hạ sách vì Công Giáo chẳng khác nào cỏ dại, nếu ta càng dập nó mạnh bao nhiêu thì bông cỏ dại càng văng xa tung tóe và lan rộng thêm bấy nhiêu ! Do những nhận định trên, tôi không tin tưởng vào khả năng diệt đạo của chính quyền Việt Nam ở quê nhà mà đặt nhiều hy vọng vào khả năng giáo dục và bài trừ mê tín nơi quý vị trí thức ngoại giáo tại hải ngoại. Những cố gắng của qúy vị trong những năm qua chắc chắc đã soi sáng tâm linh cho một số giáo dân cuồng tín tại hải ngoại cũng như ở trong nước. Đây là một công tác giáo dục hết sức chính đáng và cần thiết để cứu nguy dân tộc và góp phần bảo tồn truyền thống văn hóa nước nhà.
Tuy nhiên, những cố gắng của quý vị đã bị hạn chế rất nhiều bởi những nguyên nhân sẽ được trình bày sau đây mà theo thiển ý của tôi, quý vị có thể đã không biết hoặc không để ý tới vì lý do quý vị không phải là những người trong cuộc.
Nguyên nhân 1. Trước hết, mỗi khi phát hiện có sách báo chống đạo, các cha cố thường giảng tại nhà thờ lưu ý giáo dân về những sách báo đó và công khai ngăn cấm giáo dân đọc. Phần đông giáo dân ngây thơ răm rắp tuân lệnh các cha cố nên họ đã không đọc và không hề biết nội dung của những sách báo chống đạo nói gì. Bằng phương cách đơn giản này, các cha cố đã dễ dàng vô hiệu hóa tác dụng giáo dục của quý vị. Do vậy, cái não trạng của đa số giáo dân vẫn như xưa và chẳng có gì thay đổi. Nói lên điều này, tôi muốn lưu ý quý vị một sư thật : muốn cho công cuộc giáo dục bài trừ mê tín đạt kết quả tốt, việc trước hết là phải bằng mọi cách loại trừ toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo vì họ là một bức tường kiên cố ngăn cản ánh sáng giáo dục khiến nó không thể soi tới vùng bóng tối tâm linh của tập thể giáo dân. Nói cách khác, chừng nào còn hệ thống tu sĩ Công Giáo thì chừng đó công cuộc giáo dục bài trừ mê tín sẽ không thành công.
Nguyên nhân 2. Khi viết sách báo chống Công Giáo, quí vị thường quá chú trọng đến những điều sai trái trong Thánh Kinh như thuyết Tạo Dựng (Creation) hay thuyết Cứu Rỗi (Salvation) và quý vị chủ quan tin rằng quý vị đã nắm chắc phần thắng trong việc tấn công những điều sai trái này, quý vị tưởng rằng cứ tấn công vào những điều căn bản đó thì đạo Công Giáo sẽ sụp đổ. Nhưng thưa quí vị, đây thật sự là một ảo tưởng ! Bởi lẽ, dưới sự lãnh đạo vô cùng xảo quyệt của Vatican, các cha cố đã có sẵn trong tay vô số những lập luận lươn lẹo để giải thích cho giáo dân. Hầu hết giáo dân có trình độ hiểu biết thấp kém nên khi nghe cha cố giải thích đều thấy xuôi tai, không thắc mắc gì thêm và vẫn tiếp tục sùng đạo như xưa. Muốn biết nghệ thuật giải thích lươn lẹo rất tài tình của bộ tham mưu thần học Vatican ra sao, xin quý vị hãy tìm đọc cuốn "Giáo Lý Mới Thời Đại Mới", 517 trang, do Đất Mẹ phát hành tại Houston – Texas 1996. Thí dụ : Thánh Kinh dạy rằng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong 7 ngày. Sách Giáo Lý Mới giải thích nên hiểu chữ "ngày" ở đây là "thời đại" và mỗi thời đại có thể kéo dài qua nhiều triệu năm ! [Nhưng không có ai luận rằng nếu ngày có nghĩa là thời đại thì làm sao cây cỏ, thảo mộc sống được vì theo Thánh Kinh, Chúa sinh cây cỏ trước mặt trời.]
Về trường hợp thánh tổ Abraham lấy em gái làm vợ và toan giết con để tế thần, sách Giáo Lý Mới giải thích : "Chúng ta không được mời gọi để bắt chước những việc Abraham làm, nhưng cốt để chú ý đến thái độ trung thành của ông đối với Thiên Chúa (tr.54)”.
Nguyên nhân 3. Có một điều quý vị trí thức ngoại giáo không thể ngờ tới : đó là sự uyển chuyển linh động và co dãn như cao su của đức tin Công Giáo (the resilience of the Catholic faith). Đây là một khám phá của giới học giả Tây phương trong thời gian gần đây. Vào đầu thập niên 1970, tiến sĩ sử học Tim Dooley đã qui tụ 70 giáo sư chuyên khoa về các môn sử học, khảo cổ học, tôn giáo học, triết học và thần học thuộc các trường đại học danh tiếng Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản vác các nước Âu Châu. Họ đã cùng nhau làm việc trong 7 năm để hoàn thành một công trình nghiên cứu về Ki-tô Giáo. Họ đã đúc kết công trình nghiên cứu của họ trong hai tác phẩm đồ sộ mang tên "Eerdmans Handbook of the Bible" và "Eerdmans Handbook of Christianity", mỗi bộ sách này dày trên 700 trang giấy khổ lớn, do Eerdmans Publishing Co. xuất bản lần đầu tại Anh và Mỹ năm 1977, tái bản năm 1987, mỗi lần in mỗi đầu sách 750.000 cuốn.
Trong khi cùng làm việc với nhau, họ cố gắng tìm hiểu nguyên nhân tại sao Ki-tô Giáo (đặc biệt là Công Giáo La Mã) vẫn có khả năng vượt thoát mọi đình đốn và vẫn tồn tại sau biết bao đợt tấn công dữ dội của các giới trí thức Âu Châu như phong trào Enlightenment trong thế kỷ 18 và của các giới khoa học trong thế kỷ 19-20. Phần đông chúng ta đều nghĩ rằng Đức Tin là những điều căn bản cố định và không một ai có tư cách để sửa đổi. Trong thực tế không phải vậy ! Ki-tô Giáo nói chung và Công Giáo La Mã nói riêng có khả năng đáng kinh ngạc trong việc tự điều chỉnh và canh tân đức tin của mình, đó là một khả năng đặc biệt đã giúp Ki-tô Giáo vượt thắng mọi đợt tấn công để tiếp tục tồn tại và phát triển như ngày nay.
Một thí dụ điển hình cho việc tự điều chỉnh đức tin là vụ Vatican sửa đổi Kinh Tin Kính. Chúng ta đã biết Kinh Tin Kính đã được hình thành trong Công đồng Nicaea năm 325 để trở thành một bản tóm lược tín điều căn bản của đạo Công Giáo trong 16 thế kỷ qua. Vậy mà Vatican đã dám sửa đổi một số điều quan trọng để bài kinh này có thể phù hợp với thời đại ngày nay :
- Kinh Tin Kính cũ có câu : "(Chúa Jesus) chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại..."
- Kinh Tin Kính mới sửa lại : "(Chúa Jesus) chịu khổ hình và mai táng đời Phong-xi-ô Phila-tô, ngày thứ ba sống lại như lời Thánh Kinh" (Giáo Lý Mới Thời Đại Mới, tr.160). Như vậy ta thấy qua bài kinh Tin Kính mới, Vatican không xác nhận Jesus đã chết trên thập giá mà chỉ nói trống là Jesus chịu khổ hình mà thôi. Chúng ta được biết qua vụ khám nghiệm thánh tích Tấm Vải Liệm Turin vào tháng 10 năm 1978, giới khoa học quốc tế đã xác nhận tấm vải liệm Turin là thật và các dấu vết trên tấm vải liệm này chứng tỏ Jesus đã thoát chết sau khổ hình đóng đinh trên núi Sọ. Sau cơn hôn mê, Jesus đã tỉnh dậy chứ không phải từ kẻ chết sống lại. Xin đọc bài Tấm Vải Liệm Xác Chúa của Charlie Nguyễn trong cuốn "Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại" tr. 267-281, hoặc trong cuốn Petrus Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập tr. 157-165). Do đó, Vatican đã sửa lại kinh Tin Kính bằng cách không xác nhận Jesus đã từ kẻ chết sống lại và chỉ nói trống là Jesus đã sống lại... "như lời Thánh Kinh".
Vatican cũng loại bỏ việc Chúa xuống ngục tổ tông (tức Luyện Ngục – The Purgatory) vì ngục tổ tông là một vấn đề gây tranh cãi sôi nổi tại các nước Tây phương đã dồn Vatican vào thế bí. Cuối cùng, Vatican đã bỏ luôn câu này khỏi kinh Tin Kính.
d. Muốn giáo dục tập thể giáo dân có hiệu quả, quý vị cần xử dụng văn phong rõ ràng mạch lạc (để soi sáng vấn đề và phải dùng những từ ngữ thông dụng để họ có thể hiểu được. Thí dụ : Khi nói đến Holy Spirit hay Jean Baptist, xin quý vị cần xử dụng những danh từ mà người Công Giáo quen dùng là Đức Chúa Thánh Thần và Thánh Gio-an-Bao-ti-xi-ta thì họ sẽ hiểu ngay. Nếu quý vị gọi Holy Spririt là Con Ma Thánh và gọi Jean Baptist là Giăng Rửa Tội thì mọi người Công Giáo sẽ không hiểu quý vị nói cái gì. Khi quý vị viết sách mà người đọc không hiểu được thì mọi cố gắng giáo dục của quý vị sẽ thành vô hiệu.
(còn tiếp)
https://www.facebook.com/groups/443140173110305

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2020

CHA THÊM SỨC CHIÊN ĐUỐI SỨC.

Kinh A Hàm có đoạn :
Một hôm có vị Bà la môn hỏi Phật:
Thưa ngài Cù Đàm, đệ tử của Ngài chết, Ngài có thể cầu nguyện cho họ lên thiên đường được không?!.
Phật không đáp mà hỏi lại:
Nếu đệ tử của các ông chết, các ông có thể cầu cho họ lên thiên đường được không?!. 
Bà la môn trả lời: Được.
Phật liền đưa ra một ví dụ:
Giả sử có người đem một tảng đá lớn để trên miệng giếng rồi thỉnh hai ba chục vị Bà la môn đứng xung quanh cầu nguyện cho vị ấy xô tảng đá xuống giếng, tảng đá nổi không chìm. Quí vị Bà la môn có cầu nguyện được không?!.
Người Bà la môn đáp: Cầu không được.
Phật hỏi: Tại sao?!
Người Bà la môn đáp: Vì đá nặng, rớt xuống nước là chìm, dầu cho hàng triệu người cầu nguyện nó cũng không nổi được.
Phật lại hỏi tiếp: Giả sử có người đem dầu đổ xuống giếng rồi mời các vị Bà la môn cầu nguyện cho dầu đừng nổi mà chìm dưới đáy giếng, các vị có cầu được không?!
Người Bà la môn trả lời : Không được.
Tại sao?!:
Vì dầu nhẹ nên nổi ở trên mặt nước, không thể chìm dưới đáy giếng được.
Phật nói: Cũng vậy nếu người tạo thập ác là cái nhân đọa đường ác, làm sao cầu nguyện cho họ lên thiên đường được. Người tu thập thiện đã tạo cái nhân lên thiên đường, dù cho người ác ý muốn cầu họ xuống địa ngục họ vẫn lên thiên đường.
https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1551829788330459&set=gm.2599455590328095&type=3&theater&ifg=1
Không có mô tả ảnh.

TẠI SAO THIÊN CHÚA KHÔNG TIÊU DIỆT ĐƯỢC SATAN ?

Satan được Ki tô giáo xem là một thế lực bóng tối luôn đối nghịch lại với thế lực ánh sáng là Thiên chúa, hai thế lực này thực chất là một cùng tồn tại song hành trong vũ trụ, vì vậy không có thế lực nào có thể tiêu diệt hoàn toàn thế lực nào, tôi cho VD: Khi một căn phòng tối om chúng ta bước vào bật công tắc đèn lên thì căn phòng sáng lên, vậy ta đặt câu hỏi rằng: Khi căn phòng sáng lên thì cái bóng tối trước đó nó biến đi đâu ? Thực sự là bóng tối nó không mất đi nó vẫn tồn tại ngay trong phòng, chẳng qua là nó bị ánh sáng của bóng đèn lấn át nên lu mờ đi thôi, nếu ta tắt đèn thì bóng tối nó hiện ra như thuở ban đầu. Điều này giải thích tại sao chúng ta bị thiên chúa lừa là phải tin vào thế lực bóng tối sẽ bị quyền năng của thiên chúa tiêu diệt, đó chỉ là nói khoác mà thôi, nếu thiên chúa có khả năng tiêu diệt được Satan thì hắn đã làm từ lâu rồi, chứ không có chuyện ngồi lải nhải nguyền rủa Satan từ năm này qua tháng nọ, nguyền rủa như thế thì bao giờ Satan mới chết ? Nếu suy rộng bao quát toàn vũ trụ thì bóng tối luôn là thế lực chiếm ưu thế tuyệt đối, các hành tinh có khả năng phát sáng rất ít ỏi. Tóm lại giữa ánh sáng và bóng tối đều phải hợp tác nương tựa vào nhau để tồn tại, hãy tưởng tượng chúng ta sẽ sống như thế nào khi không có bóng tối ( chỉ có ngày mà không có đêm, và ngược lại ?) Ánh sáng và bóng tối là hai mặt cùng tồn tại trên một Đồng tiền, nếu đồng tiền chỉ có một mặt thì đồng tiền đó không có giá trị. Nếu Satan chết cũng đồng nghĩa với thiên chúa cũng chết vì cả hai thực chất chỉ là một.
Kết quả hình ảnh cho hình thiên chúa đấu vơi satan