Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2020

“Nghệ Thuật Ứng Xử” do đại đức Thích Phước Tiến giảng

https://phatphapungdung.com/phap-am/nghe-thuat-ung-xu-thich-phuoc-tien-23517.html
Bài giảng pháp “Nghệ Thuật Ứng Xử” do đại đức Thích Phước Tiến giảng tại đạo tràng Đạo Phật (Hoa Kỳ) ngày 25/12/2014 (04/11/Giáp Ngọ)

Pháp âm: Nghệ Thuật Ứng Xử – Giảng sư Thích Phước Tiến

“Người khôn nói ít nghe nhiều”
Trong thế giới này những gì mình biết thì quá ít, như nắm lá trong rừng lá, vì thế đừng chứng tỏ mình là người hay, những gì mình thấy trước mắt chưa hẳn là đúng sự thật, huống hồ là qua trung gian.
Hiền triết Socrates thừa nhận: “Tôi không biết gì cả, đó là điều tôi biết rõ nhất”.
Chỉ là người bình thường, chúng ta càng cần khiêm nhường để giữ đức hạnh.
Nếu khoe khoang, lý sự, sẽ bị gọi là “thùng rỗng kêu to” hoặc “dốt hay nói chữ”
Sự hiểu biết không thông, thường làm cho người ta có tính độc đoán, khắt khe hay cố chấp.
Càng hiểu biết người ta càng ít nói, thâm trầm và cảm thông.
Sự “im lặng” là bài học cần phải học muôn đời,
Nói nhiều dễ nói hớ. Nói thiên lệch thì mất lẽ chính,
Nói huênh hoang sẽ bị đuối lý, nói xiên xẹo rồi đến chỗ sai trái, nói giấu giếm sẽ đến chỗ cùng.
Cibbon nói: “Đàm luận khiến người ta hiểu biết, nhưng im lặng là trường học của sự khôn ngoan”.
Im lặng có khi còn là biểu hiện yêu thương, tha thứ, và là cuộc sống.
Tóm lại, im lặng là một nghệ thuật kỳ diệu và là cách thể hiện văn hóa cao cấp.
-st-

Kính chúc quý Phật tử có những phút giây thư giãn và tu học tinh tấn, thân tâm an lạc vạn sự kiết tường. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Vận số Xấu Có Thay Đổi Bằng Cầu Nguyện Không - Thầy Phước Tiến giảng

https://www.youtube.com/watch?v=DNonx9xz2mA

⏩ Đăng ký kênh ngay: http://popsww.com/PhatPhapUngDung Bài pháp thoại Vận số Xấu Có Thay Đổi Bằng Cầu Nguyện Không do Đại Đức Thích Phước Tiến thuyết giảng tại chùa Phổ Hiền (Quận Cẩm Lệ - TP Đà Nẵng) ngày 24-11-2018 Những bài giảng khác của Đại Đức Thích Phước Tiến: https://phatphapungdung.com/thich-phu... Đăng ký (Subscribe) kênh Phật Pháp Ứng Dụng để nhận những bài pháp thoại, pháp âm mới nhất: http://bit.ly/phatphapungdung - Website: Phật Pháp Ứng Dụng: phatphapungdung.com Tu Viện Tường Vân: tuvientuongvan.com.vn Blog Phật Giáo: blogphatgiao.com Facebook: facebook.com/thichphuoctienfanpage

Kinh thánh, dâm thư "Fifty shades" bị xem là 2 trong 10 cuốn sách bị thách thức nhiều nhất

(TG&DT) - Như CNN đã phổ biến trong bản tin ở trên, kinh “thánh” Thiên Chúa giáo thì chứa đầy những đoạn văn viết về “gian dâm, thủ dâm, sát nhân, rữa tiền, lừa đảo, bất lương”. Nếu các con chiên Thiên Chúa giáo, nhất là con chiên gốc Mít vàng, chịu khó đọc hết thì sẽ thấy cả hai cuốn kinh (Cựu Ước lẫn Tân Ước) còn có rất nhiều đoạn có nội dung cổ súy cho bạo lực, loạn luân, dối trá, hận thù, lừa lọc, tục tỉu …nữa
KINH THÁNH, DÂM THƯ “FIFTY SHADES” 
BỊ XEM LÀ HAI TRONG 10 CUỐN SÁCH 
BỊ THÁCH THỨC NHIỀU NHẤT
(TOP TEN CHALLENGED BOOKS)
Hiệp hội Thư viện Mỹ (ALA – American Library Association), trong Phúc trình “2016-Tình hình Thư viện Mỹ” (2016-The State of America’s Libraries) được đăng trên tập san chuyên ngành “American Libraries” của Hội (Số Đặc biệt ra vào tháng Tư năm 2016), đã liệt kê một danh sách 10 cuốn sách bị thách thức nhiều nhất. Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo và dâm thư Fifty Grades of Grey nằm trong danh sách 10 cuốn top ten nầy. (Ảnh: ALA)

(Tin CNN, 12-4-2016) Những đề tài được đề cập đến trong Kinh thánh Thiên Chúa giáo là: gian dâm, thủ dâm, sát nhân, rữa tiền, lừa đảo gia đình, chính quyền bất lương và, một cách đặc biệt, tôn giáo.

Trong tất cả những đề tài nầy, thì đề tài cuối cùng (“tôn giáo”) lại bị Hiệp Hội Thư Viện Mỹ (ALA) dùng [như là tiêu chuẩn] để chọn đưa Kinh Thánh vào trong danh sách những tác phẩm bị thách thức nhiều nhất trong năm 2015.

Hôm thứ Hai [11/4/2016], Hiệp hội đã phát hành Danh sách Hằng năm Những Cuốn sách Bị Thách thức nhất (dưới dạng PDF http://www.ala.org/news/sites/ala.org.news/files/content/state-of-americas-libraries-2016-final.pdf ), và Kinh Thánh bị xếp hạng thứ Sáu (với lý do: “quan điểm tôn giáo”). Đây là lần xuất hiện đầu tiên trên danh sách những Sách Tốt khi dùng những số liệu kể từ năm 2001.

Thật vậy, trong danh sách có một số đầu sách mới cũng như đầu sách bị liệt kê lại sau nhiều năm biến mất

Đứng đầu danh sách là cuốn Looking For Alaska, một tiểu thuyết của John Green, viết về những sinh viên trong một trường nội trú. Sau hai năm liên tục xuất hiện trên danh sách, cuốn nầy hoàn toàn biến mất vào năm ngoái. Tác giả John Green đã thông báo trên tweeter cho hơn 5 triệu bạn đọc của ông ta về sự xuất hiện trở lại trong danh sách lần nầy.

Cũng trở lại trên danh sách là cuốn Fifty Shades of Grey của E.L. James, cuốn đầu trong trọn bộ 3-cuốn dâm thư của tác giả. Cuốn nầy cũng vậy, đã biến mất khỏi danh sách năm ngoái sau khi nằm trong top ten trong hai năm 2012 và 2013.

Mặt khác, cuốn The Absolutely True Diary of a Part-Time Indian của Sherman Alexie, năm ngoái vốn đứng đầu danh sách những cuốn bị thách thức, thì năm nay lại không lọt được vào top ten. Cuốn nầy nằm trong danh sách mọi năm, từ 2010 đến 2014.

Những “thách thức” được gửi đến các thư viện để phản đối thì gồm những nội dung đồng tính luyến ái, ngôn ngữ có tính xúc phạm, bạo lực và không phù hợp với lứa tuổi của độc giả tương ứng. Điều thích thú là một lý do khiến cuốn dâm thư Fifty Shades of Grey bị thách thức là “viết kém”.

Văn phòng Tự Do Trí Tuệ (Office For Intellectual Freedom) của Hiệp Hội Thư Viện Mỹ (ALA) đã ghi nhận 275 thách thức năm 2015, ít hơn số 311 thách thức của năm 2014. Năm có nhiều thách thức nhất là năm 2004, khi Văn phòng nhận 547 thách thức. “Thách thức” được định nghĩa như “một lá đơn phàn nàn chính thức gửi đến một thư viện hoặc một trường học, yêu cầu tác phẩm phải bị rút ra vì nội dung không thích đáng”.

Todd Leopold / CNN
12/4/2016
Nguồn Anh ngữ: http://www.cnn.com/2016/04/12/living/most-challenged-books-2016-feat/index.html

*   *   *

Như CNN đã phổ biến trong bản tin ở trên, kinh “thánh” Thiên Chúa giáo thì chứa đầy những đoạn văn viết về  “gian dâm, thủ dâm, sát nhân, rữa tiền, lừa đảo, bất lương”. Nếu các con chiên Thiên Chúa giáo, nhất là con chiên gốc Mít vàng, chịu khó đọc hết thì sẽ thấy cả hai cuốn kinh (Cựu Ước lẫn Tân Ước) còn có rất nhiều đoạn có nội dung cổ súy cho bạo lực, loạn luân, dối trá, hận thù, lừa lọc, tục tỉu …nữa (Xem thêm All The Obscenities in the Bible của Gene Kasmar; Christianity & Incest của Imbens & Jonker; The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scriptures của Ben Akerley; Who Wrote The Bible? của Richard Elliott Friedman; One Hundred Contradictions in the Bible của Marshall Gauvin; Deceptions & Myths of the Bible của Lloyd Graham; Who Wrote The Gospels? của Randel McCraw Helms; The Bad News Bible: The New Testament của David Voas; …).

Nhưng lần nầy (năm 2015), những thách thức được gửi đến các thư viện và trường học Mỹ đã khiến ALA phải dùng tiêu chuẩn quan điểm tôn giáo (“religious viewpoint”) để đem “kinh thánh” vào danh sách các tác phẩm bị thách thức. Điều đó nghĩa là gì?

Có lẽ ALA cho rằng “quan điểm tôn giáo” của Thiên Chúa giáo, đặc biệt của Vatican, bao gồm những quan điểm phát sinh từ nền thần học Thiên Chúa giáo như (i) thuyết Sáng tạo vũ trụ trong 7 ngày 6 đêm cực kỳ phản khoa học, như(ii) thuyết Cứu rỗi tào lao của ông Giêsu chết đi sống lại rồi bay lên trời, như (iii) thuyết Thiên đàng Địa ngục đời đời rất ba láp để chiêu dụ và hù dọa những con chiên có đầu mà không có óc, như (iv) thuyết Giáo hội được thiết lập trên hòn đá Phêrô để ban cho mấy ông Giáo hoàng kỷ năng không bao giờ sai lầm rất xảo trá, như (v) thuyết cô Do Thái tên Maria “không chồng mà chữa mới ngoan”, rồi có con mà vẫn còn màng trinh nên vô nhiễm nguyên tội để sau nầy “lên trời cả hồn lẫn xác” (mà các tia vũ trụ cực nóng cũng không đốt cháy được xiêm y, quần lót và nịt vú của cổ), như thuyết v.v...

“Quan điểm tôn giáo” Thiên Chúa giáo đẻ ra những cái thuyết cực kỳ mê tín dị đoan đó chỉ làm ngu dân mà thôi thì làm sao nằm trong thư viện và trường học được. “Thách thức” chúng và vất chúng vào thùng rác là quá đúng rồi!

Vì thế mà bây giờ, hai cuốn kinh rất “thánh” đó của con chiên Thiên Chúa giáo mới bắt đầu bị thư viện và nhà trường Mỹ xếp chung với loại sách có nội dung như sau.

Xin trích từ Phúc trình “2016-The State of America’s Libraries” đăng trong tạp chí American Libraries (số đặc biệt 4/2016) của Hiệp hội American Library Association(ALA):
[Nguồn Anh ngữ: http://www.ala.org/news/sites/ala.org.news/files/content/state-of-americas-libraries-2016-final.pdf ]

Out of 275 challenges recorded by the American Library Association’s (ALA) Office for Intellectual Freedom, the “Top Ten Most Challenged Books in 2015” are:

1. Looking for Alaska, by John Green - Reasons: Offensive language, sexually explicit, and unsuited for age group. (Lý do: Ngôn ngữ có tính xúc phạm, Gợi dục rõ ràng, và Không phù hợp với lứa tuổi của độc giả)

2. Fifty Shades of Grey, by E. L. James - Reasons: Sexually explicit, unsuited to age group, and other (“poorly written,” “concerns that a group of teenagers will want to try it”). (Lý do:Gợi dục rõ ràng, Không phù hợp với lứa tuổi của độc giả, và các lý do khác như “văn kém”, “sợ rằng một nhóm tuổi vị thành niên sẽ muốn thử xem sao”)

3. I Am Jazz, by Jessica Herthel and Jazz Jennings - Reasons: Inaccurate, homosexuality, sex education, religious viewpoint, and unsuited for age group. (Lý do: Không đúng, Đồng tính luyến ái, Giáo dục giới tính, Quan điểm tôn giáo, và không phù hợp với lứa tuổi của độc giả)

4. Beyond Magenta: Transgender Teens Speak Out, by Susan Kuklin - Reasons: Anti-family, offensive language, homosexuality, sex education, political viewpoint, religious viewpoint, unsuited for age group, and other (“wants to remove from collection to ward off complaints”). (Lý do: Chống lại gia đình, Ngôn ngữ có tính xúc phạm, Đồng tính luyến ái, Giáo dục Giới tính, Quan điểm chính trị, Quan điểm tôn giáo, Không phù hợp với lứa tuổi của độc giả, và các lý do khác như “muốn bỏ ra khỏi tủ sách để tránh khỏi bị than phiền”)

5. The Curious Incident of the Dog in the Night-Time, by Mark Haddon - Reasons: Offensive language, religious viewpoint, unsuited for age group, and other (“profanity and atheism”). (Lý do: Ngôn ngữ có tính xúc phạm,  Quan điểm tôn giáo, Không phù hợp với lứa tuổi của độc giả, và lý do khác như “báng bổ và vô thần”)

6. The Holy Bible- Reasons: Religious viewpoint. (Lý do:  Quan điểm tôn giáo)

7. Fun Home, by Alison Bechdel - Reasons: Violence and other (“graphic images”). (Lý do: Bạo lực và lý do khác như “hình ảnh gợi ác, gợi dục gây xúc động mạnh”)

8. Habibi, by Craig Thompson - Reasons: Nudity, sexually explicit, and unsuited for age group. (Lý do: Khỏa thân, Gợi dục rõ ràng,  và Không phù hợp với lứa tuổi của độc giả)

9. Nasreen’s Secret School: A True Story from Afghanistan, by Jeanette Winter - Reasons: Religious viewpoint, unsuited to age group, and violence. (Lý do: Quan điểm tôn giáo, Không phù hợp với lứa tuổi của độc giả và bạo lực)

10.Two Boys Kissing, by David Levithan - Reasons: Homosexuality and other (“condones public displays of affection”) (Lý do: Đồng tính luyến ái, và lý do khác như“cổ súy cho hành vi bày tỏ tình cảm ở chổ công cọng”)
Kinh “thánh” Thiên Chúa giáo được xếp chung với những dâm thư “ba xu” (Ảnh: Internet)

Nguồn Anh ngữ: http://www.ala.org/news/sites/ala.org.news/files/content/state-of-americas-libraries-2016-final.pdf

Bible, 'Fifty Shades' among most challenged books
By Todd Leopold, CNN
Updated 11:14 AM ET, Tue April 12, 2016

(CNN) Among the topics addressed in the Bible: fornication, masturbation, murder, moneylending, deceitful families, dishonest authorities and -- especially -- religion.
Of all those, it's the last one that got the book named to the American Library Association's list of most challenged books of 2015.

The association put out its annual listing of most challenged books (PDF) Monday, and the Bible came in sixth. (Reason: "religious viewpoint.") It's the first appearance on the list for the Good Book, using records back to 2001.
Indeed, the list featured a number of newcomers, as well as books returning the list for the first time in years.

Tops was "Looking for Alaska," John Green's novel about students at a boarding school. After two consecutive years on the list, it had dropped off entirely last year.
Green tweeted about the entry to his more than 5 million followers.

Also returning is E L James' "Fifty Shades of Grey," the first novel in the author's erotic trilogy. It, too, had dropped off the list last year after being among the top 10 in 2012 and 2013.
On the other hand, Sherman Alexie's "The Absolutely True Diary of a Part-Time Indian," last year's No. 1 most challenged book, was not among this year's top 10. It had made the list every year from 2010  to  2014.

Challenges were made to libraries to protest content including homosexuality, offensive language, violence and unsuitability to the book's age group. Intriguingly, one reason for the challenge to "Fifty Shades of Grey" was that it was "poorly written."

The American Library Association's Office for Intellectual Freedom recorded 275 challenges in 2015, down from 311 in 2014. The top year for challenges was 2004, when the office received 547. It defines a challenge as "a formal, written complaint, filed with a library or school requesting that materials be removed because of content or appropriateness."

http://www.cnn.com/2016/04/12/living/most-challenged-books-2016-feat/index.html

Todd Leopold/CNN (Kevin Trần sưu tầm)

Ngọn lửa Quảng Đức và biến cố Phật giáo 1963 dưới tầm nhìn của thế giới

(TG&DT) - Những Ngọn lửa thiêng và biến cố 63 đã tạo cơ duyên tốt cho Phật Giáo để chấn hưng và một vận hội mới cho quy trình cách mạng xứ sở, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước, vào thế chính trị quốc tế, vào ý chí của toàn dân và nhất là tùy thuộc vào những con người có lương tâm, trí tuệ và hùng lực của thành phần lãnh đạo.
Sau Thế Chiến Thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ để cung ứng cho chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay chân Pháp ở Đông Dương biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cọng với khẩu hiệu“Để chận đứng sự bành trướng của chủ nghĩa cọng sản tại vùng Đông Nam Á”, nhưng thực tế cũng còn để tiêu thụ hết số hàng hoá và khí giới thặng dư. Để thi hành hai mục tiêu then chốt cùng một lúc tại Việt nam, chính phủ Mỹ sẽ chỉ chấp nhận một chính quyền bù nhìn, dễ sai và phục tòng Mỹ, nghĩa là một chính quyền Công Giáo (vì Tin Lành còn yếu vào thời điểm đó) trong một quốc gia mà số tín đồ của họ chỉ có 5 % dân số. Chính sách phản dân chủ ‘Đa số phục tùng thiểu số’ do tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực hiện, do đó, đã là một trong những nguyên nhân xa và gián tiếp đưa đến vụ tranh đấu Phật Giáo 1963, và Ngọn đuốc Thích Quảng Đức và sáu ngọn đuốc khác* nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đình Diệm và đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng bất công và bóc lột đè nặng lên thân phận người dân Việt kể từ thời Pháp thuộc kéo dài đến không những với chế độ Ngô Đình Diệm mà còn với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền ‘bình mới nhưng rượu còn nguyên’.

Phác họa lại vài nét đơn sơ về bối cảnh lịch sử như thế để thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo 1963 không phải chỉ được nhìn một cách đơn giản là vì sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo (CG và TL) mà nguyên nhân chính, còn là, giữa hai tôn giáo mà chính sách của chúng rất khác biệt. Một bên, nói theo ý của Giám Mục Puginier, là cái càng của con cua thực dân** do chế độ tôn giáo độc tài Ngô Đình Diệm nuôi dưỡng và ưu đải, còn bên kia là các tín ngưỡng dân tộc chết sống với sự thăng trầm của vận nước bị nhà Ngô đàn áp. Biến cố Phật Giáo 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước đã quá đầy. Vì thế cuộc tranh đấu do Phật Giáo khởi xướng là một cuộc tranh đấu không những của toàn dân miền Nam Việt Nam mà cũng là cuộc tranh đấu của những người yêu chuộng tự do bình đẳng công bằng xã hội trên khắp thế giới.

Với cái nhìn thoáng qua chiều dài lịch sử như thế chúng ta mới biết được nguyên nhân tại sao cuộc tranh đấu nầy lại được toàn dân và thế giới nhiệt liệt ủng hộ mà trong đó có nhiều nhân vật lãnh đạo không có cùng một tín ngưỡng với người Phật tử Việt nam và nhiều quốc gia dẫu có chung một khuynh hướng chính trị với chính phủ Ngô Đình Diệm. Chiều hướng ủng hộ tích cực nầy càng mạnh hơn sau khi Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự nguyện đem thân làm ngọn đuốc để cảnh tỉnh lòng người.

Ngài sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, tỉnh Khánh Hòa, xuất gia lúc 15 tuổi, tu học tại chùa Linh Mụ Huế. Trước lúc tự thiêu Ngài trú tại chùa Quán Thế Am, Sài Gòn. Sau khi 8 Phật tử bị giết tối ngày 8.5.1963 tại đài phát thanh Huế, và 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo không được chính quyền Ngô Đình Diệm thỏa thuận, Hoà Thượng Thích Quảng Đức người đầu tiên trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, sau nhiều tuần thiền định để tăng trưởng thêm nội lực, đã tự nguyện hy hiến cuộc đời cho đại nghĩa giữa ngã tư đường Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt Sài-gòn sáng ngày 11.6.1963.

                                                                                                                                           
Khác với những lời xuyên tạc của những người bênh vực nhà Ngô, ký giả Nữu Ước Thời Báo (New York Times) David Halberstam đã tường thuật bằng những lời vừa ngạc nhiên vừa kính nễ:

“Tôi được thấy lại cảnh tượng ấy, nhưng chỉ một lần cũng đã quá đủ. Lửa phủ khắp người; thân từ từ khô lại, đầu cháy nám, không khí bay mùi khét thịt, thân hình chìm trong lửa đỏ thật kinh ngạc. Phía sau, tôi có thể nghe tiếng khóc của những người đang lần lượt kéo đến. Tôi quá xúc động khóc không nên lời, quá bàng hoàng để ghi chép hoặc hỏi vài câu, quá bối rối để suy nghĩ... chìm trong biển lửa nhưng ngài vẫn bất động, thịt gân không nhúc nhích, không một tiếng rên la, thân ngã xuống, những người đang đứng xung quanh òa khóc.”

I was to see that sight again, but once was enough. Flames were coming from a human being; his body was slowly withering and shriveling up, his head blackening and charring. In the air was smell of burning human flesh; human being burn surprisingly quickly. Behind me I could hear the sobbing of the Vietnamese who were now gathering. I was too shocked to cry, too confuse to take notes or ask questions, too bewildered to even think... As he burned he never move a muscle, never uttered a sound, his outward composure in sharp contrast to the wailing people around him (quoted by Jollie Hicks): (http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/student.work/hicksr/).

Những bài tường thuật của Malcolm Browne về cuộc tự thiêu của HT Thích Quảng Đức được hảng thông tấn AP gởi về Mỹ nhanh chóng, và những bức hình tự thiêu do ông chụp cũng được hầu hết các tờ báo khắp thế giới đăng lên trang đầu. Từ đó, lần đầu tiên độc giả khắp nơi bắt đầu tò mò về những gì đang xẩy ra tại Việt Nam, một quốc gia xa lạ ở vùng Đông Nam Á.

‘Tuy nhiên, thái độ của phái bộ (thông tin) Hoa Kỳ lúc đầu là cố gắng làm giảm cường độ một số các nguồn tin chính thức thường cung cấp cho giới truyền thông. Nhưng đây không phải là một công việc dễ mặc dầu bản doanh của báo giới bị buộc chặt, có nhóm đoàn kết chặt chẻ, và có nhóm lo sợ. Cảnh sát ngầm của chính phủ Diệm lại lén thu băng các cuộc điện đàm của các nhà báo, theo giỏi các máy điện tín, gài người vào các văn phòng và chạy theo ký giả trên các đường phố. Dẫu vậy, qua việc xử dụng các người thăm viếng, nhân viên hàng không, và ngay cả những cảm tình viên quân sự nên giới nhà báo vẫn chuyển đi được các bản tin mà họ chứng kiến. Vì thất bại trong việc điều khiển nguồn cung cấp tin nên chính phủ Kennedy đã phải đưa công việc nầy lên một đơn vị cao hơn.’ (A Reader, The American Experience in Vietnam, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989 pp. 112 & 113).

Làm đủ mọi cách, nhưng cả phái bộ truyền tin của Mỹ và của Việt Nam đã không thể ngăn chận nỗi các tin tức về cuộc tranh đấu của Phật giáo, nhất là sau khi HT Quảng Đức tự thiêu, nên cả thế giới hầu như được biết tường tận về biến cố vĩ đại nầy.

a. Quảng Cáo trên New York Times và Washington Post... : Ký giả kiêm nhiếp ảnh gia Malcolm W. Browne viết: 

“Những bức hình mà tôi chụp về cái chết của HT. Quảng Đức đã trở thành một sở hữu vật mà người ta gởi đi cùng khắp thế giới. Những bức hình đó mang nhiều ý nghĩa tùy theo cái nhìn và mục đích xử dụng của mỗi người.

Một người quen ở Lisbon gởi thư cho tôi biết rằng những bức hình về cái chết của ngài Quảng Đức được thành phần diều hâu bày bán khắp cùng ngõ hẻm. Một nhóm giáo sĩ nỗi tiếng người Mỹ cũng dùng một trong những bức hình nầy để tạo sự Chú ý cho những trang quảng cáo của họ trên Nữu Ước Thời Báo (New York Times) và báo Hoa Thịnh Đốn (Washington Post) với hàng chữ “Chúng ta cũng phản đối: We, too, protest”. Sự phản đối của họ là nhắm vào việc người Mỹ ủng hộ chế độ Diệm.” Malcolm W. Browne, The New Face Of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968, Tr. 261-262. Xin xem thêm Christian G. Appy, Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides, tr. 60-65).

                                                                                                       Malcolm W. Browne                                   TT. Kennedy
                        
b. Trung Hoa: “Hình tự thiêu của ngài Quảng Đức được Hoa Lục in ra hằng triệu bản (printed millions of copies). Một trong những bức hình đó đã gởi cùng khắp các quốc gia Á-Phi với hàng chữ lớn “Một tăng sĩ Phật Giáo hy sinh thân mạng để chống chủ nghĩa đế quốc Mỹ-Diệm.”

Hình tự thiêu của HT. Quảng Đức cũng là một ấn tượng ảnh hưởng đến tòa Bạch-ốc. Tôi (Browne) được biết rằng lúc ông Henry Cabot Lodge đến gặp cố Tổng Thống Kennedy về việc được bổ nhiệm chức đại sứ tại Việt Nam, Kennedy cũng đã có một bức hình tự thiêu của HT. Quảng Đức trên bàn giấy. Cái chết của ngài Quảng Đức có lẻ là một trong những yếu tố chính để cuối cùng Bộ Ngoại Giao và Toà Bạch-ốc chống đối chính phủ Diệm, đang đổi hướng lịch sử Việt Nam” [...Quang Duc’s death probably was one of the factors that finally turned the State Department and White House against Diem, altering the course of Vietnamese history to some extent (Malcolm W. Browne, The New Face of War, tr. 263). 

c. Báo Le Monde, Pháp ngày 13.6.64 viết: “Trước hành động tự sát để đấu tranh, kẻ tàn bạo nhất cũng phải chùn bước.” (Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, bản Ronéo 1984, tr.320)

d. Báo La Gazette de Lausanne tại Thụy sĩ: Viết những lời rất cảm động về cuộc tự thiêu của HT Quảng Đức như sau:

“Sự hy sinh rất khích động của vị tăng sĩ thiêu sống ngay tại Sài Gòn buộc người ta phải kính trọng. Sự hy sinh vì Chính Pháp của ông khiến chúng ta liên tưởng tới những người Gia Tô đầu tiên và sự liên tưởng nầy càng làm cho chúng ta cảm thấy oái oăm.” (Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Ký Chính Trị, Hoa Kỳ 1986, tr. 640).

e. Báo Journal de Genève: Là một tờ báo khác ở Thụy sĩ có ảnh hưởng lớn trên thế giới nhận định:

“Người ta có thể tuyên truyền rằng đó chỉ là cuộc nỗi loạn của phe đa số khắc khổ kiếm chuyện vì chính phủ chỉ là một thiểu số bó kết chặt chẻ với nhau mà bộ tịch lại vênh váo và cứng nhắc. Nhưng việc phải hy sinh vì Chánh Pháp của Hòa Thượng Thích Quảng Đức lại cho thấy rằng Phật Giáo Việt Nam đang phải bảo vệ nếp sống và tư tưởng của họ.” (Đỗ Mậu, sách đã dẫn, tr. 641).
g. Chính Phủ Ngô Đình Diệm: Sau vụ tự thiêu chấn động dư luận của HT. Quảng Đức, Ngô Đình Diệm thực sự bối rối nên ông qui trách người khác thiếu căn cứ:

“Ông Diệm vu khống nhiếp ảnh gia Browne đã hối lộ các nhà sư Phật giáo để giết một nhà sư đồng nghiệp.”

Diem’s reaction was to accuse Browne of bribing the Buddhist monks to murder their fellow monk. (Grace Sevy, sách đã dẫn, tr.112). 

Bà Ngô Đình Nhu: Lúc trả lời cuộc phỏng vấn đài truyền hình MỸ, ký giả Mecklin viết rằng bà Nhu nói:

“Tất cả những việc mà Phật Giáo đóng góp cho đất nước từ trước đến nay không có gì ngoài việc thiêu sống một nhà sư”... và “Ông Thích Quảng Đức bị chích thuốc và bị cưởng bách thiêu sống, nhưng về sau bà Nhu đã tìm cách từ chối một số các phát biểu thiếu trách nhiệm nầy.”

All that the Buddhists have done for the country is to barbecue the monk...She claimed that Thích Quảng Đức had been drugged and burned against his will. She later tried to deny having made some of her cynical comments. (Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967, tr .1184). 

Việc bà Nhu về sau muốn cải chính những phát biểu bồng bột và thiếu suy nghĩ của bà, như ông Buttinger cho biết, cũng đáng để chúng ta cảm phục và quí mến. Tin nầy cũng phù hợp với TIN QUAN TRỌNG SAU ĐÂY: 

Tôi (Bùi Kha) có người quen ở Orange County cho biết, cách đây gần hai mươi năm, ông Ngô Đình Trác, con trai của bà Ngô Đình Nhu ở tại Pháp, cùng với nhà thơ Du Tử Lê đến chùa Việt Nam Los Angeles, California lúc 2 giờ sáng để gặp Hoà Thượng Thích Mãn Giác. Hòa Thượng tiếp đón vui vẻ. Sau khi thắp hương và lễ Phật, ông Ngô Đình Trác thưa rằng “Mạ con biểu con qua gặp Hòa Thượng và xin Hoà Thượng trình lại với giáo hội Phật Giáo là mẹ con và thay mặt gia đình xin sám hối những lời nói và việc làm trước đây đối với tăng ni và Phật-tử Việt Nam...” Hòa Thượng Mãn Giác rất xúc động, quí mến nghĩa cử của bà Nhu, và an ủi ông Ngô Đình Trác rằng “Lúc đó bà còn nhỏ tuổi và không ai cố vấn...”(HT. Thích Mãn Giác hiện sống tại Los Angles và nhà thơ Du Tử Lê hiện ở Orange County, California).

Ông Ngô Đình Nhu: “Ngày 15 tháng 8 một nhà sư khác tự thiêu ở Huế, ba ngày sau đó một ni cô tự thiêu ở Ninh Hòa (Khánh Hòa có lẽ đúng hơn, BK). Để phụ hoạ với vợ, ông Ngô Đình Nhu cũng nhẫn tâm giả vờ như không có gì hệ trọng:

“Nếu Phật Giáo muốn có một vụ nướng thịt khác thì tôi rất vui lòng cung cấp xăng.”

On August 15, another monk burned himself at Hue, followed three days later by a nun at Ninh Hoa. Not wishing to lag behind his wife in callousness, Ngo Dinh Nhu soon afterward stated that “if Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline”. (J. Buttinger, Ibid. p. 995).

Những cuộc tự thiêu đã thức tỉnh thế giới và chấn động lương tâm nhân loại, nhưng ý nghĩa của nó thì thường bị hiểu lầm và có người cho đó là một vụ tự tử (suiside) không hơn không kém. Để làm sáng rõ ý nghĩa các cuộc tự thiêu của Tăng Ni và Phật Tử năm 1963, tôi xin trích dẫn hai ý kiến của hai tu sĩ sau đây, một Tin Lành một Phật Giáo để làm sáng rõ thêm lịch sử.

* Mục sư Donald Harrington tại Nữu ước: Trong buổi giảng tại một thính đường ở New York ngày 30.6.63, Mục sư Harrington đã mô tả trung thực chân tình và cảm phục việc HT Quảng Đức tự thiêu. Bài giảng đó cũng có đoạn nói lên ý nghĩa đích thực của hành động tự thiêu: 

“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63 vị sư tên Thích Quảng Đức đã ngồi theo kiểu tọa thiền trên đường nhựa nóng. Trong tay Người cầm một xâu chuổi 54 hạt và bắt đầu niệm Phật còn trên chiếc áo cà sa của Người thì đã tẩm ướt đầy xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường gì sắp xẩy ra nên tất cả đều dừng lại chờ đợi.

Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn mặt, Ngài Quảng Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đà Phật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay lay động. Người ngồi thẳng trong mười phút, thân hình chìm trong lửa đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...

Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận nào đã có thể khiến cho một người của “Tình Thương” của “Hòa Bình”, quyết chí tự thiêu?...

Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đã đưa con người trên đời nầy đến chỗ tự tử, thì một lý tưởng cao cả nhất và lòng yêu đời nồng nàn nhất một đôi khi cũng đã sản xuất những người tử đạo quả cảm nhất trong lịch sử...

Hòa Thượng Quảng Đức hy sinh đời mình bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng Thống Diệm và lưu ý cho toàn thế giới..

Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời của Người cho Tổng Thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu nghe hay chú ý. Nhưng dù sao tiếng nói ấy vẫn là tiếng nói của tình thương, tiếng nói mà trong thâm tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam. Người đã để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà Giáo Hoàng Gioan đã mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đã làm và Người phải làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi tìm linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ biết rằng, trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay quyền bình đẳng tôn giáo cho Phật Giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam, tất cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay...

Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính đồng bào của họ...” (Vũ Văn Mẫu, sách đã dẫn, tr.322-324. Xin xem thêm trong cuốn: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại, Giao Điểm 2003, tr.148-160).

* Ý Kiến của Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh:

“Báo chí gọi đó là một hành động tự tử, nhưng thực chất không phải. Ngay cả đó không phải là một hành động phản đối. Điều mà những vị sư đã viết trong những bức thư để lại trước lúc tự thiêu là nhằm cảnh tỉnh, là để chuyển đổi tâm tư của những nhà cầm quyền, và để kêu gọi thế giới quan tâm đến những nỗi thống khổ triền miên của người dân Việt Nam. Người tự thiêu là để chứng tỏ rằng nguyện vọng mà họ đề cập là rất tối ư quan trọng...Tu sĩ Việt Nam tự thiêu là để nói lên với tất cả sức mạnh và quyết chí rằng tôi có thể chịu đựng sự khổ đau cùng cực nhất để bảo vệ cho đồng bào của tôi...Để bày tỏ ước vọng bằng cách tự thiêu của một người, vì thế, không phải là một hành động hủy diệt mà là một hành động tạo dựng, đó là, để đau khổ và để chết cho người khác. Như thế, tự thiêu không phải là một hành động tự tử.”

The press spoke then of suiside, but in the essence, it is not.It is not even a protest. What the monks said in the letters they left before burning themselves aimed only at alarming, at moving the hearts of the oppressors, and at calling the attention of the world to the suffering endured then by Vietnamese. To burn oneself by fire is to prove that what one is saying is of the utmost importance. The Vietnamese monk, by burning himself, says with all his strength and determination that he can endure the greatest of sufferings to protect his people. To express will by burning oneself, therefore, is not to commit an act of destruction but to perform an act of construction, that is, to suffer and to die for the sake of one’s people. This is not suicide.

Thầy Nhất Hạnh đi xa hơn để giải thích tại sao sự tự thiêu của HT Thích Quảng Đức không phải là một cuộc tự tử, tự tử là trái với lời dạy của Đức Phật:

“Tự tử là một hành động tự hủy do những nguyên nhân sau đây: (1) thiếu ý chí để sống và gặp những khó khăn; (2) thất bại trong cuộc sống và tuyệt vọng; (3) không muốn sống...Vị tu sĩ tự thiêu (Thích Quảng Đức) không mất nghị lực, không thiếu hy vọng; cũng như không phải không muốn sống. Trái lại, Ngài có đầy nghị lực, tràn hy vọng và mong ước một cái gì tốt cho tương lai. Ngài không có ý nghĩ tự hủy; nhưng tin vào những hoa trái tốt từ sự tự hy hiến đời mình cho kẻ khác...Tôi tin chắc rằng tất cả các vị sư tự thiêu không muốn những người cai trị chết, nhưng chỉ nhằm thay đổi chính sách của họ. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người. Kẻ thù của chúng ta là sự thiếu khoan dung, cuồng tín, độc tài, tham đắm, hận thù và kỳ thị, chúng đang nằm sẵn trong tâm của con người.”
      
(Suicide is an act of self-destruction, having as causes the following: (1) lack of courage to live and cope with difficulties; (2) defeat by life and loss of all hope; (3) desire for non exsistence... The monk who burns himself has lost neither courage nor hope; nor does he desire nonexsistence. On the contrary, he is very courageous and hopeful and aspires for something good in the future. He does no think that he is destroying himself; he belives in the good fruition of his act of self-sacrifce for the sake of others ... I believe with all my heart that the monks who burned themselves did not aim at the death of their oppressors but only at a change in their policy. Their enemies are not man. They are intolerance, fanaticism, dictatorship, cupidity, hatred, and discrimination which lie within the heart of man.” (Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc. New York,1967, pp. 106 &107). 

Sau cuộc bố ráp chùa và bắt tăng ni đêm 20.8 bằng kế hoạch “Nước Lũ” của chính quyền Ngô Đình Diệm, thế giới ngày càng hiểu rõ hơn nguyện vọng chính đáng của Phật Giáo Việt Nam. Vì thế, họ đã lên tiếng mạnh mẽ ủng hộ Phật Giáo và chỉ trích chính sách kỳ thị bạo ngược của chính phủ Diệm.

Trong những cá nhân, đoàn thể và quốc gia ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo ta có thể chia làm ba thành phần. Những người khác tín ngưỡng với Phật Giáo, những quốc gia đa phần theo Phật Giáo và những nước tân tiến kỹ thuật. Sau đây là một số trích dẫn.

1. LM. Lê Quang Oánh***: Từ hồ Than Thở Đà Lạt ngày 12.5.1963, Linh Mục Lê Quang Oánh đại diện khối Giải Sĩ Đồng Tâm, Linh Mục T. Võ Quang Thiêng, nữ sinh M. Ngọc Lan Hương... gởi thư cho Hoà Thượng Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam bày tỏ sự đồng tình cuộc tranh đấu của Phật Giáo. Thư có đoạn viết như sau:

“Chúng tôi lên án “Tội bất công” đã giết hại đồng bào vô tội. Thật là tàn bạo, dã man, phản dân chủ, phản tự do, phản đạo đức, làm nhục cho quốc thể Việt Nam, một nườc văn hiến trên bốn nghìn năm lịch sử.

“Giám quả quyết rằng: “Nhân nghĩa sẽ thắng.”

2. Vatican: Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Lục cũng đã ba lần lên tiếng về vấn đề Phật Giáo. Ngày 30.8.63 Giáo Hoàng đọc một thông điệp gởi đến nhân dân Việt Nam, nhưng văn thư nầy cũng bị chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn cấm không cho phổ biến. Một đoạn trong thông điệp nầy Giáo Hoàng viết như sau:

“Giáo Hoàng đã biểu lộ sự chú tâm và đau đớn theo dõi các biến cố bi thảm đương dầy vò nhân dân Việt Nam và sự lo âu của Giáo Hoàng ngày càng thêm sâu sắc...Giáo Hoàng cầu nguyện để cho tất cả mọi người, trong mối hợp tác khoan dung và trong sự tương kính các quyền tự do chân chính, đoàn kết với nhau để tái lập tương thân và tình huynh đệ.”

Le Pape exprime sa douloureuse préocupation au sujet des tristes évènements qui affigent le cher peuple Viêtnamien, tandis que l’angoisse devient de jour en jour plus profonde et lancinante...Et il fait des voeux que tous, dans une généreuse collaboration et dans un mutual respect des libertés legitimes, unissent pour rétablir la concorde réciproque et la fraternité (Bốn Mươi Năm Nhìn Lại tr.126.

3. Cao Miên: Sau ngày HT Quảng Đức tự thiêu, ông Trần Văn Được, hội trưởng hội Phật Giáo Việt kiều tại Cao Miên, đã viết thư lên án chính phủ Ngô Đình Diệm và thỉnh cầu Quốc Trưởng Sihanouk yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp. Sau khi các chùa bị tấn công, tăng ni bị bắt đêm 20.8.63, chính phủ Cao Miên ngày 23.8.63 đã chính thức ra thông cáo kịch liệt lên án chính phủ Việt Nam. Một đoạn trong thông cáo viết:

“Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt kinh hải khi nhận đươc tin Chính phủ Sài Gòn đã đàn áp dã man tín đồ Phật giáo...Chính phủ Hoàng gia Cam Bốt hoàn toàn ủng hộ các Tăng Ni Phật tử Việt Nam” (Bốn Mươi Năm Nhìn Lại, sách đã dẫn, p.133).

Đến ngày 27,8.63, chính phủ Cam Bốt gởi văn thư đoạn giao với Việt Nam bằng những lời lẻ rất nặng nề:

“..Toàn thể dân tộc Cam Bốt cũng như tất cả các dân tộc khác trên thế giới đều công phẫn và ghê tởm trước những hành động dã man đàn áp Phật Giáo Việt Nam...” (BMNNL, tr . 134).

4. Tích Lan: Ngọn lửa từ bi hùng tráng Thích Quảng Đức và sự ngược đải Phật tử tại Việt Nam đã khiến bà Sirimavo Bandaranaike, thủ tướng Tích Lan, vô cùng xúc động. Bà kêu gọi các nước theo Phật giáo tại Á châu ủng hộ Tích Lan trong việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào vấn đề đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam. Ngày 26.8.63 hội nghị Phật Giáo Tích Lan yêu cầu các đoàn thể Phật Giáo trên toàn quốc treo cờ rũ để tang các Phật tử hi sinh vì tín ngưỡng (BMNNL, tr.136).

5. Miến Điện: Sau ngày các chùa tại Việt nam bị bố ráp, chính phủ Miến Điện càng công phẫn hơn. Báo Guandiantai tại Rangoon, thủ đô Miến Điện, cực lực lên án chính sách bạo ngược của chính phủ Ngô Đình Diệm. Báo viết rằng:

“Mỹ sẽ lầm khi nghĩ rằng tiếp tục ủng hộ một chính phủ đang ngự trị trên thân xác đau thương của những Phật tử Việt Nam mà có thể giữ được nguyên vẹn tình cảm ngoại giao với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á” (BMNNL, tr.138).

6. An Độ: Nhiều hội Phật Học An yêu cầu thủ tướng Néru can thiệp. Ngày25.8.63, Tổng Thư Ký đảng Quốc Gia An rất công phẫn chế độ Ngô Đình Diệm và cảm nhận nỗi đau thương của tín đồ Phật Giáo Việt Nam:

“Nhữn gtin tức loan đi từ Sài Gòn đã làm chấn động dư luận tại An Độ, quê hương của Phật Giáo. Những sự tàn bạo mà các đạo hữu Việt Nam là nạn nhân càng làm cho ta phẫn nộ khi nhớ rằng Phật Giáo chủ trương bất bạo động.”(BMNNL,tr.138).

7. Thái Lan: Ngày 22.8.63 thống chế Sarit Thanarat, thủ tướng Thái Lan, đề nghị triệu tập một hội nghị sơ bộ gồm các nước Phật giáo trước lúc đưa vấn đề Phật Giáo Việt Nam ra Liên Hiệp Quốc. Bốn ngày sau đó Đại tá Mutukhan, Phó giám đốc nha Tôn giáo thuộc bộ Giáo Dục, đã khuyến cáo chính phủ Việt Nam bằng những lời gay gắt và như một tiên tri:

“Vì đã đàn áp Phật tử Việt Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm sẽ hứngg chịu hết những tai hoạ dưới đủ mọi hình thức, hiểu theo giáo lý nhà Phật, kể cả giệt vong và đọa địa ngục...”(BMNNL, p.141).

8. Đài Loan: Bộ ngoại giao Đài Loan tuyên bố rất lo ngại cuộc khủng hoảng tôn giáo tại Việt Nam và mong mõi chính phủ Việt Nam sớm có giải pháp thích hợp để chấm dứt cuộc khủng hoảng.

9. Nam Hàn: Đại đức Kapchong, Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo, gởi thư cho chính phủ Việt Nam yêu cầu chấm dứt việc đàn áp Phật tử. Tướng Chang Chung Sơn, nhân viên trong hội đồng Quân nhân cách mạng, đã gởi thư lên án chíng phủ Việt nam đàn áp Phật tử một cách vô nhân đạo.

10. Nhật Bản: Tổ đình Bổn Nguyệt Tự tổ chức một buổi lễ đại cầu siêu cho cố HT. Quảng Đức và Phật tử Việt Nam hy sinh vì tín ngưỡng. Mặc dù dè giặt nhưng Thứ trưởng Ngoại giao ông Shigenobu Shima tiếp xúc với Đại sứ Việt Nam tại Nhật để biểu lộ sự lo âu về biến cố Phật Giáo Việt Nam.

Báo chí và dư luận của các nước Tây Phương rất nhiệt tình và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam.

11. Báo Le Monde: Được xem là phản ảnh quan điểm của Bộ Ngoại giáo Pháp. Số ra ngày 10.6.63 đã công kích chính phủ Việt Nam bằng những lời lẽ kịch liệt như sau:

“Biến cố ở Huế đã xẩy ra do sự đàn áp tàn bạo của nhà cầm quyền, và đã là một cơ hội tốt để sự bất mãn của nhân dân bộc phát. Sự tranh chấp nầy đã lột trần sự cô lập và thất nhân tâm của một nhóm thiểu số Thiên Chúa Giáo được ưu đải.” (BMNNL, tr.144). 

12. La Croix: Là một nhật báo có nhiều ảnh hưởng trong giới Công Giáo Pháp đăng bài quan điểm chống đối chính sách độc tôn của chính Phủ Ngô Đình Diệm và kêu gọi tín đồ Công Giáo cầu nguyện cho Phật Tử Việt Nam. (Hoành Linh Đỗ Mậu, tr. 640).

13. Báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo): Số ra ngày 8.8.1963 viết:

“... Chính phủ Hoa Kỳ đã tìm đủ mọi cách để buộc ông Diệm phải giải quyết vấn đề Phật Giáo. Nhưng người ta hết sức kinh ngạc khi nghe bà Ngô Đình Nhu, em dâu của Tổng Thống Diệm, vu khống các lãnh tụ Phật giáo là phiến loạn, sát nhân, và áp dụng chiến dịch Cọng sản. Có tin cho biết, chồng bà Nhu, em của Tổng thống Diệm, có thể cầm đầu một cuộc đảo chánh đã làm cho Hoa Kỳ lo ngại. Có nhiều người cho rằng những tin đồn về cuộc đảo chánh như vậy là một phần trong chiến tranh tâm lý chống Phậ giáo, và cũng là một sự hăm dọa đối với Hoa Kỳ.” (BMNNL, tr.147).

14. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: Liền sau khi các chùa trên toàn miền nam bị tấn công, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phổ biến một tuyên ngôn, có đoạn như sau:

“Căn cứ vào các tin loan đi từ Sài goon, rõ ràng chính phủ Việt Nam Cọng Hòa đã có những biện pháp đàn áp nghiêm khắc các lãnh tụ Phật giáo Việt Nam. Hành động nầy là một vi phạm trực tiếp của chính phủ Việt Nam vào lời cam kết theo đuổi một chính sách hòa giải với tín đồ Phật Giáo. Hoa kỳ phiền trách các hành động đàn áp loại nầy.”

Text of Statement issued by Department of State, Washington, on August 21: On the basis of information from Saigon, it appears that the Government of the Republic of Vietnam has instituted serious repressive measures against Vietnamese Buddhist leaders. The action represents a direct violation by the Vietnamese Government of assurances that it was pursuing a policy of reconciliation with the Buddhists. The United State deplores repressive action of this nature. (Vũ Văn Mẫu, tr.333).

15. Liên Hiệp Quốc: Với những hình ảnh Phật tử Việt nam bị đàn áp, bắt bớ, tù đày, vu khống bởi chính quyền Ngô Đình Diệm được đăng tải vào trang nhất của hầu hết các báo khắp thế giới, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã không thể làm ngơ, nên ngày 24.9.1963 một phái đoàn đặc biệt được gởi đến Việt Nam để điều tra vụ Phật Giáo. Mặc dầu chính quyền Ngô Đình Diệm không cho phái đoàn Liên Hiệp Quốc tự do đến những nơi cần thiết để điều tra, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đã thu thập đủ bằng chứng để kết luận rằng ‘Phật tử Việt Nam bị chính quyền Ngô Đình Diệm kỳ thị, khủng bố, tra tấn, tù đày, giết hại và cải đạo trong nhiều năm qua.’

Tóm kết, cuộc tranh đấu Phật giáo 1963 không nằm hạn hẹp trong việc đòi hỏi sự bình đẳng và quyền tự do tôn giáo mà còn là một cuộc đòi hỏi về công bằng xã hội và quyền được sống an bình trong một quốc gia như bao nhiêu quốc gia khác trên thế giới. Cuộc tranh chấp ý thức hệ mà Việt Nam là một bải chiến trường để đọ sức. Khí giới, bom đạn, hàng hoá bị thặng dự sau Thế chiến Thứ hai thì Việt Nam là một thị trường tốt để tiêu thụ. Người Việt trở thành nạn nhân nhưng được các cường quốc che dấu bằng những danh từ hoa mỹ. Vì thế, cuộc tranh đấu Phật Giáo 63 được toàn dân, toàn quân ủng hộ và thế giới tán đồng. Sự tự hy hiến bi hùng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như những ngọn lửa thiêng tiếp nối sau đó là để chính phủ Ngô Đình Diệm tỉnh thức và thế giới lưu tâm. Kết quả là cộng đồng thế giới có lưu tâm nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm lại không đếm xĩa nên cuối cùng, chế độ mất lòng dân và ngược thời đại nầy đã bị sụp đổ...

Những Ngọn lửa thiêng và biến cố 63 đã tạo cơ duyên tốt cho Phật Giáo để chấn hưng và một vận hội mới cho quy trình cách mạng xứ sở, nhưng tất cả đều tùy thuộc vào vận nước, vào thế chính trị quốc tế, vào ý chí của toàn dân và nhất là tùy thuộc vào những con người có lương tâm, trí tuệ và hùng lực của thành phần lãnh đạo.
Bùi Kha
--------------------------------------------------------------
*Thượng Toạ Thích Tiêu Diêu, Đại Đức Thích Thanh Tuệ, ĐĐ Thích Thiện Mỹ, ĐĐ Thích Nguyên Hương, Sư Cô Thích Nữ Diệu Quang và Phật Tử Đặng Thị Ngọc Tuyền.
** Giám Mục Puginier nhận định “Không có giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp (rồi đến người Mỹ) như cua bị bẻ gãy hết càng” (Sans les missionnaires et les chrétiens, ecrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabs auquels on aurait cassé toutes les pattes).
***Tôi chỉ liệt kê một người khác tín ngưỡng tiêu biểu.
---------------------------
Sách Tham Khảo:
1. Giao Điểm: 1963-2003 Bốn Mươi Năm Nhìn Lại, Giao Điểm 2003
2. Hoành Linh Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Hồi Ký Chính Trị, Hoa Kỳ 1993
3. Minh Không Vũ Văn Mẫu, Sáu Tháng Pháp Nạn 1963, bản Ronéo 1984
4. Appy, Christian G. Patriots The Vietnamese War Remembered From All Sides, New York 2003
5. Browne, Malcolm W. , The New Face Of War, Revised Edition,The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968
6. Buttinger, Joseph, Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War, Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967
7. Nhat Hanh, Vietnam: Lotus in a Sea of Fire. Hill and Wang, Inc.New York,1967
8. Savey, Grace, A Reader, The American Experience in Vietnam, edited by Grace Savey, University of Oklahoma Pess, 1989
9. Tucker, Spencer C. Editor Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, 1997-1998
10. Tuần báo New York Times (Nữu Ước Thời Báo), tháng 6-8.1963
11. U.S. News & World Report: Tháng 6-8.1963
12. Tuần báo Time, tháng 6-8.1964
13. Tuần báo Washington Post tháng 6-8. 1964
14. http://www.uwec.edu/greider/BMRB/culture/ tudent.work/hicksr/
Đã đăng: http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=1674

Chúa Giê Su bay về trời chỉ là chuyện bịa đặt

Các môn đồ nhìn theo khi Chúa Giê-su lên trời

Thứ nhất: Nếu Giê Su có phép mầu nhiệm như thế thì tại sao hắn ta không phá hủy thập giá đóng đinh hắn ta trên pháp trường và bay lên ngay lúc đó, để cho bàng dân thiên hạ thấy ông ta là thiên chúa chính hiệu.

Thứ hai: Giê Su bay lên trời bằng lực nâng của động cơ hay phương tiện gì ? trong khi hắn chỉ là một con người bình thường phải chịu sự chi phối của lực hút trái đất. Ngày nay chúng ta bay lên trời được phải nhờ máy bay và tên lửa có gắn động cơ phản lực cực mạnh. Trong khi đó 2.000 năm trước chưa hề có phát minh động cơ phản lực nào.

Thứ ba: Nếu Giê Su tự bay lên được không cần máy móc nâng đỡ thì hắn sẽ chết ngay tức khắc khi vượt độ cao ngoài tầng khí quyển của trái đất vì không có ô xi để thở.

Giải ngu cho chiên ngáo chúa - Ki tô giáo cướp ngày lễ thần mặt trời làm ngày Giáng sinh

(TG&DT) - Người ta thường coi lễ Giáng Sinh là mùa trang hoàng, tặng quà và vui chơi ăn nhậu, nhưng nguồn gốc của Giáng Sinh thì ít người để ý tới. Người ta chỉ biết vui chơi hưởng thụ, coi Giáng Sinh như một kỷ niệm mà không cần biết nó bắt đầu từ đâu và lúc nào.
Dĩ nhiên người ta hiểu đó là ngày Chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ nơi hang lừa ở Bethlehem mà không cần biết nó đúng hay sai. Trái lại, mấy ai biết Lễ Giáng Sinh có lúc đã bị cấm ở Mỹ thời thuộc địa (1).

Ở Âu Châu và Mỹ Châu thì tinh thần Giáng Sinh là tiếng chuông nhà thờ vang lên trong đêm đông tuyết phủ giá lạnh với hình ảnh ông già Noel / Santa Claus trên xe trượt tuyết và bầy nai bay lướt trên không mù mịt tuyết rơi, được tả trong cuốn tiểu thuyết của Charles Dickens, A Christmas Carol. Ở Á Đông và Việt Nam chúng ta thì từ ngày ảnh hưởng Tây phương và Thiên Chúa Giáo, Giáng Sinh cũng được hòa đồng vào văn hóa dân tộc, và người ta, nhân ngày này để vui chơi, chúc mừng và tặng quà cho nhau. Đơn giản chỉ có vậy.

Nhưng có người coi ngày sinh nhật Chúa Giêsu chỉ là chuyện thần thoại, đóng khung trong các khu thương mại và các cửa hàng buôn bán nhộn nhịp khác thường với những câu chào hỏi chúc mừng nhau Merry Christmas kèm theo Happy New Year vì chỉ còn vài ngày nữa là sang năm mới. Ngoài ra cứ mỗi năm, khi mặt tiền các ngôi thánh đường được trang hoàng, giăng mắc hoa đèn là người ta lại nhớ tới ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Thế là “Giêsu là lý do của ngày lễ lớn Giáng Sinh này.”
Nhưng, có thật là vì Giêsu hay không?
4,000 năm Lễ Giáng Sinh. Nguồn: Ulysses Press
Trong cuốn sách của Eart W. Count (1899-1996) và Alice Lawson Count (1916-2013): 4,000 năm Lễ Giáng Sinh / 4000 Years of Christmas: A Gift from the Ages, xuất bản lần đầu năm 1990, tả lại một cách thích thú lịch sử việc trao đổi quà tặng trong bài hát ‘12 ngày của Lễ Giáng Sinh / The 12 days of Christmas’ và những tập tục bắt nguồn từ xứ Babylon thời xa xưa. Tác giả cho biết cành lá holly đã được thầy cả Druid dùng trong nghi thức mầu nhiệm tế lễ và ngày 25 tháng 12 là ngày mừng lễ Mặt Trời của người La Mã hồi xưa chứ không phải là ngày mừng sinh nhật chúa Giêsu.

Giáo hội sơ khai có mừng lễ Giáng sinh không?

Trong Tân Ước, chúng ta không thấy có chỗ nào nói các tông đồ của chúa Giesu mừng sinh nhật Chúa Giêsu. Nhưng vào cuối thế kỷ III, nhà thần học công giáo Origen tuyên bố ai lấy lễ hội của dân ngoại để mừng Chúa Giáng Sinh thì có tội.

Vào thế kỷ I, dân thành Corinto ở Hy Lạp, đa số theo đạo đa thần. Phong tục của đạo là mua bán dâm ngay trong đền thờ, và các thầy cả thì tế lễ vật hy sinh cho các thần miễu Hy Lạp và La Mã.

Thánh Phaolo có lần đã viết thư gửi cho các tín hữu Corinto như sau: “Thế nghĩa là gì? Thịt cúng là gì? Ngẫu tượng là gì? Tuy nhiên, đồ cúng là ‘cúng cho ma quỉ, không phải cho Thiên Chúa’; mà tôi không muốn anh em hiệp thông với ma quỉ. Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỉ; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc với Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc với ma quỉ được.” (1Cr. 10:19-21).

Thánh Phaolo rõ ràng đã cảnh cáo các tín hữu phải xa lánh bất cứ cái gì đụng chạm và liên quan đến tập tục của dân ngoại có thể gán cho mình cái nhãn hiệu là “thông đồng với ma quỉ”!

Giống như các Kito hữu thời giáo hội sơ khai, họ mừng lễ thần Mặt Trời, tức thần Canh Nông, một lễ hội của dân La Mã thời xưa. Nhiều tôn giáo lúc đó mừng những lễ hội vào thời Đông Chí ở Bắc bán cầu khi mà ngày ngắn đêm dài. Họ cầu xin các thần thánh cho mặt trời mau trở lại để mùa đông qua đi cho lẹ, ngày dài trở lại.

Vào ngày Lễ Mặt Trời, người ta ăn nhậu say sưa, chơi bời buông thả phóng đãng và thi hành những tập tục trái với giáo huấn của chúa Kito. Tuy nhiên sau cùng nó cũng được biến thành lễ Giáng Sinh, ngày sinh nhật chúa Giêsu. Cái gì đã làm thay đổi các Kito hữu từ chỗ thánh Phaolo cấm không được thờ phượng ma quỉ và làm bất cứ cái gì liên quan tới dân ngoại đến chỗ chấp nhận và tham dự vào những tập tục của dân ngoại dưới danh hiệu chúa Giêsu Kito?

Đã có rất nhiều áp lực buộc những Kito hữu tân tòng phải theo lời dạy của thánh Phaolo từ bỏ việc thờ lạy lẫn lộn ngẫu tượng và Thiên Chúa. Nhưng lúc đó hàng ngàn người muốn trở lại đạo nhưng không muốn từ bỏ những tập tục, nghi lễ của tôn giáo cũ của mình.

Tác giả cuốn “4,000 năm Lễ Giáng Sinh” đã tóm tắt cuộc phấn đấu giằng co đó như sau:

“Đối với dân ngoại, ngày lễ Mặt Trời là một ngày vui. Đối với tín hữu Kito giáo, lễ Mặt Trời là một tập tục ghê tởm, tôn thờ một vị thần nhơ nhớp không có thực. Ngoài ra các Kito hữu vẫn cố gắng phải làm công việc rất khó khăn và chậm chạp là mang những dân ngoại La Mã bê bối trở lại với Chúa.

“Lúc bấy giờ cũng có nhiều di dân vào sống trong hàng ngũ Kito hữu, và các Giáo hoàng cũng nhận thấy là mình đang phải đối đầu với sự xâm nhập của các tập tục của dân ngoại. Bỏ đi những tập tục về lễ Mặt Trời là cả một vấn đề nan giải. Lúc đầu Giáo Hội cũng cấm đoán, nhưng vô ích. Nước giòng sông chảy đụng vào tảng đá mà đá không lay động thì nước bắt buộc phải chảy quanh nó mà thôi. Nếu không cấm được Lễ Mặt Trời thì phải làm quen với nó để hòa nhập vậy.” (p.36)

Tại sao lại là ngày 25 tháng 12?

Giáo hội chọn ngày 25 tháng 12 là ngày cuối cùng của lễ thờ Mặt Trời tiếp theo sau ngày lễ Thần Canh Nông, làm ngày sinh nhật chúa Giêsu.

Ngày này cũng là ngày đại lễ của đạo Mithra, một tôn giáo thờ mặt trời ở Ba Tư. Vào năm 274 A.D. hoàng đế La Mã Aurelian tuyên bố ngày 25 tháng 12 là ngày “sinh nhật mặt trời” là đấng vô địch. Đến thời con một Thiên Chúa là Giêsu Kito giáng trần thì hình ảnh của Thiên Chúa là đấng tối cao bị lẫn lộn với ý tưởng thần mặt trời trong đầu óc của hàng trăm ngàn người vừa mới trở lại đạo trên toàn đế quốc La Mã. Có lẽ vì thế mà Giáo Hội mới lấy ngày 25 tháng 12 làm ngày Lễ Giáng Sinh, sinh nhật của chúa Giêsu?

Thế là thay vì dựa vào sức mạnh của chúa Kito để thay đổi thế giới, danh hiệu Kito bị dân ngoại thay đổi hay đúng hơn được biến cải để hội nhập!

Tác giả “4000 Years of Christmas: A Gift from the Ages” thuật lại như sau:

“Năm 742 AD thánh Boniface viết thư than phiền với Đức Giáo Hoàng Zacharias rằng… ông làm việc quá cực nhọc để mang những người Franks và Alemans -bộ lạc Đức- trở lại đạo đã bị trở ngại vì những người công giáo La Mã ham vui hội hè bê bối ở ngay quê nhà mình. Dân Franks và Alemans đang sắp sửa trở lại đạo nhưng vì ham mê vui thú hội hè như người La Mã nên việc cải đạo bị trở ngại.

Khi thánh Boniface yêu cầu họ xa lánh những tập tục vui thú đó thì họ nói họ mừng những ngày hội đó dưới sự bảo trợ của Rome. Cảm thấy bối rối và lo lắng, giáo hoàng Zacharias trả lời…và công nhận là dân thành Roma quá bê bối vào ngày lễ Giáng Sinh” (p.53)
Lễ Giáng sinh qua nhiều thế kỷ, Nguồn: Oxford Univercity Pres

Qua những thế kỷ sau, ở Đức, Thuỵ Điển / Scandivania và Ái Nhĩ Lan / Celtic, lễ Giáng Sinh lại có những tập tục của dân ngoại, trang hoàng bằng những cây thông xanh và lá holly.

Vào thời Trung Cổ, ở Âu Châu người ta lại mừng Lễ Gáng Sinh kiểu lễ Thần Canh Nông. Tác giả Penne L. Restad, trong Christmas in America, A History, tả lại cuộc bàn cãi về đạo đức vào thời điểm đó như sau:

“Một số giáo sĩ cho rằng loài người sa ngã cần phải có những lúc xả hơi miễn là nằm trong khuôn khổ Kito giáo. Những vị khác lại chủ trương tất cả những vết tích của ngoại giáo cần phải loại bỏ khỏi những ngày nghỉ ngơi vui hội. Những kitô hữu trung dung, không nồng nhiệt lắm thì than phiền Giáo Hội có những luật lệ vô lý, lại tính thay đổi những tập tục cũ. Tuy nhiên Giáo Hội vẫn còn hy vọng là những cử chỉ và hành động thánh sẽ thay thế những lề lối phàm tục khi mà dân ngoại bỏ đi những cuộc vui chơi chè chén cũ và trở về với Kito giáo.” (1996, p.6).

Buồn thay, mong ước đó đã không xẩy ra như ý. Tiếp theo thời Trung Cổ, một số nhà thệ phản đã cố gắng cải đổi Lễ Giáng Sinh nhưng chỉ thay đổi được chút ít. Thanh giáo Anh đã chống lại những nghi lễ Giáng Sinh và phản đối hoàn toàn, cho rằng không đúng tinh thần Kito giáo. Năm 1659 ngày lễ nghỉ đó đã bị hủy bỏ và cấm hẳn ở bang Massachusetts, nhưng vì nó đã quá phổ thông và được mọi người ưa thích nên cuối cùng vào năm 1681 lễ Giáng Sinh lại được chính thức công nhận trở lại.

Trên Tờ U.S. News & World Report, tác giả bài “Tìm hiểu Lễ Giáng Sinh/In Search of Christmas”, Jeffery L. Sheler, đã viết:

“Khi Lễ Giáng Sinh đến bờ biển Mỹ Quốc, người ta ăn mừng một cách khá đàng hoàng thanh sạch. Vào thời thuộc địa, ngày sinh nhật chúa Giêsu Kitô, nếu được mừng thì mừng như một ngày lễ hội lớn…Nhưng Thanh Giáo ở New England lúc đó đã thẳng tay từ bỏ, không coi là ngày lễ nghỉ nữa.” (Dec. 23, 1996, p.60).

Vào thời đại tân tiến và kinh tế hiện giờ, nhiều Kito hữu lại đặt nặng vấn đề thương mại hơn là tôn giáo. Những cuộc biểu diễn, thi xe hoa với ông già Noel trên đường phố được bảo trợ bởi những công ty, nhà hàng, department stores để quảng bá hàng hóa bán nửa giá; truyền hình truyền thanh liên tục quảng cáo đủ mọi mặt hàng với giá rẻ. Lễ Giáng Sinh hiển nhiên đã trở nên ưu tiên đứng đầu về tiền bạc hơn là thờ kính Thiên Chúa. Nó được biến thành ngày Lễ Nghỉ. Tiếng Chúa Giáng Sinh đã bị lu mờ đi. Một số ý kiến không muốn nhắc đến vấn đề tôn giáo. Trên thiệp Giáng Sinh và câu chúc tụng nhau vì vậy không còn thấy ghi hay nói Merry Christmas nhưng là Happy Holidays!

Tuy nhiên cũng có nhiều người nghĩ đến Lễ Giáng Sinh với tinh thần đạo đức tôn giáo hơn là vui chơi và thương mại. Nhưng phải chăng cuộc sống vội vã và tham lam của con người khi nghĩ tới Giáng Sinh đã có vấn đề rồi hay chính lễ Giáng Sinh tự nó cũng có cái gì lấn cấn?

Hãy để Chúa Giêsu vào vị trí của ngài

Lễ Giáng Sinh hiện đã trở thành ngày lễ nghỉ chính thức của Hoa Kỳ, nên ít ai chịu trở lại quá khứ mà coi lại ý nghĩa thực của lễ Giáng Sinh.

Ngày Chúa Giêsu chào đời không phải là ngày 25 tháng 12. Các môn đệ của Chúa cũng không chấp nhận những lễ hội thờ thần nhảm nhí và khuyên các Kito hữu nên xa lánh. Giáo Hội sơ khai không mừng lễ sinh nhật của Chúa Giêsu. Chọn ngày 25 tháng 12 làm ngày Chúa sinh ra là dựa vào ngày lễ hội thờ thần Nông Nghiệp và thần Mặt Trời của dân ngoại.

Nhiều tập tục về Giáng Sinh, như trang hoàng cây thông, lá holly, hoa đèn, ngôi sao, ông già Noel / Santa Claus, trao đổi quà tặng, không do kinh thánh mà từ những tôn giáo của dân ngoại. Qua dòng lịch sử, lễ Giáng Sinh là những ngày lễ hội ăn nhậu, chè chén say sưa, và bây giờ thì là cơ hội cho trẻ nít vòi vĩnh cha mẹ quà, đồ chơi hơn là nhớ đến Chúa Giêsu đã giáng trần trong cô đơn lạnh lẽo.

Vậy thì bạn nghĩ thế nào? Có người nói “Làm sao chúng tôi có thể bỏ lễ Giáng Sinh khỏi trẻ em được”. Có người nói “Lễ Giáng sinh là cơ hội đem mọi người trở lại với Chúa thì đâu còn là vấn đề nữa?”

Chúng ta biết, thánh Phaolo viết thư khuyên các tín hữu sống trong cộng đồng dân ngoại ở Corinto như thế nào rồi. Ngài còn tiếp tục đặt vấn đề với họ: “…Làm sao sự công chính lại liên kết được với bất chính? Làm sao ánh sánh lại thông đồng với bóng tối được? Làm sao Đức Kitô lại hòa hợp với ma quỉ được? Làm sao người có đức tin lại chung phần với người không có niềm tin? Làm sao Đền Thờ Chúa lại đi đôi với tà thần được?

“Vì thế, ‘hãy ra khỏi dân ấy và rời xa chúng, Chúa phán như vậy. Đừng có đụng tới vật ô uế nào, và ta sẽ đón nhận các ngươi…’ Do đó….chúng ta hãy tẩy rửa hồn xác cho sạch khỏi mọi vết nhơ và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo sống thánh thiện hoàn toàn.” (2Cr 6:14-18; 7:1).

Quan điểm của thánh Phaolo về Lễ Giáng Sinh quả là thích hợp. Làm sao chúng ta có thể tuyên xưng thờ phượng Thiên Chúa bằng những truyền thống và tập tục của dân ngoại mà chính Chúa đã cấm?

Câu hỏi quyết định là làm sao chúng ta có thể đặt Chúa Giêsu trở lại đúng vị thế của Ngài trong mùa lễ này là lễ mà Ngài chưa bao giờ khởi đầu và can dự vào? Đó là câu hỏi khó và rất quan trọng, mỗi người chúng ta nên tìm câu trả lời.

Tuy nhiên, cho rằng lễ Giáng Sinh bắt nguồn từ lễ hội của dân ngoại, thì cũng chẳng có gì là sai trái mà còn có vẻ thức thời hợp lý ở thời đại toàn cầu hóa và hòa đồng tôn giáo, miễn sao nó không có những hành động thế tục tội lỗi là được.

Còn ngày 25 tháng 12 thì chắc chắn không phải là ngày chúa Giêsu sinh ra. Giáo hoàng Biển Đức XVI (Pope Benedict XVI), trong cuốn sách “Jesus of Nazareth, The Infancy Narratives” xuất bản ngày 20-11-12, cũng cho rằng ngày 25-12 không phải là ngày sinh nhật của Chúa, vì tu sĩ Dionysius Exignus đã tính lầm, do đó lịch Công Giáo hiện giờ cũng bị sai, chậm đi mất cỡ 7 năm.

Bs.Nguyễn Tiến Cảnh
Fleming Island, Florida
Dec 10, 2015

Bài Giảng Pháp Ý Nghĩa Nhất - Thầy Thích Phước Tiến - Tự Giải Thoát

https://www.youtube.com/watch?v=5dr-pdwPX_0